Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

CHÙM THƠ TRẦN XUÂN AN

Trần Xuân An
Chủ nhật ngày 3 tháng 10 năm 2010 7:59 AM

 

Bài 1

+

 

HÌNH DUNG KHI ĐẾN PHÚ YÊN

+

xe với sao mai cùng lúc tới

Phú Yên, nhụy sáng, xinh Tuy Hòa

mình, con đom đóm nhiều năm trước

gùi trăng Chiau Mạa, có lần qua

+

đèn đuốc thuở nào hiu hắt lắm

sáng nhau, nguồn sáng là trăng trời

sớm nay còn xám, thơ bừng thắp

tâm kết mỗi từ, trăm ngọc tươi

+

đâu phải Tản Đà thơ quán gió:

đa tình con mắt Phú Yên xưa

duyên hơn lửa, nắng, trăng và điện

tim ngời, sao liếc, nghe đong đưa!

+

lòng hòa, nốt nhạc vin dây vút

đất giàu thương mến, rất bình an (*)

ngày đầu khẽ lắng chuông trong ngực

đom đóm - ngọc trai - sao biếc ngân.

(*) Phần nào theo nghĩa chữ Hán của hai địa danh Tuy Hòa, Phú Yên.

 

+

Bài này được viết

sau khi nhận được thông báo sẽ đi dự trại sáng tác Phú Yên

từ 18 đến 28-9 HB10 (2010)

& có sửa ít chữ sau cuộc họp nhóm nhà văn, nhà thơ dự trại ở cơ quan HNV.TP.HCM.

 

 +

+

Bài 2

+

KÍNH NGHĨ VỀ LÊ THÀNH PHƯƠNG (1825-1887),

NGHĨA TƯỚNG CẦN VƯƠNG

+

Lệnh người đi – Dụ về kẻ ở (1)

chiếncần; “hòa”quyết bất đồng (2)

Ông yêu nước trách Người yêu nước?

hay cáo giặc làm ai nhiễu lòng? (3)

+

năm thập niên gần đây tưởng nhớ (4)

nước mắt buồn chảy ngược vào hồn

trang sử cũ giờ đây lật mở

Ông và Người chung trái tim son

+

Người gục chết, đảo đày – châu Mỹ (5)

bến Cây Dừa, máu đẫm vai Ông

Hịch Chiêu quân, chữ nào đã lỡ?

chú giải đành khắc giữa núi sông (6)

+

hay chỉ từ một chín bảy mốt

Hịch thêm vào nét nghĩa vu oan

tranh thờ Ông, cũng sai trang phục

quản hương binh, hệt tướng vua Càn! (7)

+

nghìn đời sau dâng hương lễ hội

trán trang nghiêm, ánh mắt trong hơn

kế li gián, giặc gieo, đã rõ

Ông và Người cùng sáng nước non.

 

+

(1) “Lệnh dụ thiên hạ Cần Vương”“Dụ Nguyễn Văn Tường”, từ Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị), được phát đi khắp nơi và gửi về Huế trong cùng một ngày, 13 – 7 – 1885 (02 – 6 Ất Dậu), với sách lược “kẻ ở, người đi”.

(2) Kháng chiến là cần vương (giúp vua [cứu nước]); “hòa”, nhưng quyết không cùng lòng với giặc Pháp. “Hòa” ở trường hợp Nguyễn Văn Tường, trong thời điểm sau ngày 05 – 7 – 1885, thực ra là chiến. Nguyễn Văn Tường vốn là người đứng đầu nhóm chủ chiến (xem: bản án chung thẩm trong “Đại Nam thực lục”, kỉ Đồng Khánh, tập 37, sđd., tr. 35).

+

(3) “Hịch Chiêu quân” của Lê Thành Phương có câu không đúng với sự thật lịch sử. Từ lâu, giới sử học cùng bản thân tôi đã làm rõ. Cũng cần nói thêm: đồng thời với các chi tiết bôi nhọ, xuyên tạc, chính các bản dụ, cáo thị của thực dân Pháp, ngụy triều Đồng Khánh – Nguyễn Hữu Độ cũng vô hình trung ghi nhận lòng trung thành của nhân dân, phong trào Cần vương các tỉnh tả kì đối với Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), Tôn Thất Thuyết (1839 – 1813). Do đó, “Hịch Chiêu Quân” chắc hẳn đã bị thêm bớt do đời người đời sau (“hay cáo giặc làm ai nhiễu lòng?” - TXA) (*). Xin xem thêm bốn đầu sách đã xuất bản chính thức của Trần Xuân An cùng các bài khác của tác giả (trong cuốn “Bàn thêm về mấy vấn nạn sử học”) về đề tài Nguyễn Văn Tường.

 +

(*) Năm 1971, mới công bố Hịch Chiêu quân. Trích dẫn từ các nguồn tài liệu:

 +

-- “Do các ông Lê Thành Thao, Lê Thành Lược, Võ Toàn Lưu, cháu nội ngoại 4 đời của Lê Thành Phương sưu tầm. Các bài này hiện còn ghi tại đền thờ Lê Thành Phương” (Tạp chí Văn hóa – Nghệ thuật Phú Khánh, xuân Giáp Tý, số 2 - 1984, tr. 32 – tài liệu tại Thư viện Phú Yên).

-- “Bài hịch này, đọc trước ba quân tướng sĩ (*1), vào tháng 8-1885, ở núi Một, thôn Tân An, tổng Xuân Vinh, phủ Tuy An. Thân quyến Lê Thành Phương đã ghi chép và lưu giữ bản hịch này. Đến năm 1971 (đền thờ Lê Thành Phương xây dựng xong), ông Võ Toàn Lưu và ông Lê Thành Thao chép bài hịch thành văn bản để thờ tại đền thờ Lê Thành Phương” (Đặc san “Danh nhân lịch sử Lê Thành Phương”, Bản tàng tỉnh Phú Yên xuất bản, 2-1997, tr. 17 – tài liệu của ThS. Nguyễn Quang Trung Tiến)

+

                    (*1) Lê Thành Phương chỉ là một vị chỉ huy lực lượng hương binh ở một địa phương mà thôi.

 +

Thêm vào đó, tấm chân dung Lê Thành Phương được đặt ở bàn thờ trong đền thờ ông là một bức họa được vẽ, cho chúng ta thấy ông mặc quan phục (trang phục quan võ triều Nguyễn?). Rõ ràng đó là chi tiết phi lịch sử. Suốt đời Lê Thành Phương chưa hề làm quan (chỉ đỗ tú tài, ở nhà dạy học) và lúc khởi nghĩa Cần vương (sau 5-7-1885), chắc chắn ông không có điều kiện kịp thời để mặc quan phục võ tướng. Mặt khác, các sĩ phu lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa Cần vương chỉ chỉ huy hương binh và cung cách ăn mặc cũng theo cách của các nghĩa sĩ, nghĩa là không mặc quan phục võ tướng như thế.

+

(4) Lê Thành Phương không được sách sử trong Nam ngoài Bắc từ trước đến nay đề cập đến, mặc dù đều có viết về phong trào Cần vương ở Phú, Khánh, Thuận. Thậm chí, A. Laborde còn cho rằng phong trào Cần vương ở Phú Yên (1885-1887) là do người Bình Định thúc đẩy, cụ thể là Mai Xuân Thưởng (1860-1887) (bài “Tỉnh Phú Yên”, trong “Những người bạn cố đô Huế” [B.A.V.H.], tập XVI, năm 1929, Nguyễn Cửu Sà dịch, Lưu Nguyễn, Nhị Xuyên hiệu đính, Nxb. Thuận Hóa, 2003, tr. 389-391 [tr. 382-454]). Đền thờ Lê Thành Phương mới được dựng từ 1956, tu bổ vào năm 1971. Xin đánh dấu hỏi khoa học ở điểm này.

+

(5) Quần đảo Tahiti, thuộc Pháp, trên Thái Bình Dương, gần châu Mỹ.

+

(6) Hiện nay, thực hiện yêu cầu khoa học cần thiết là chú giải vào “nguyên bản” lưu hành. Gọi là “nguyên  bản” nhưng thực ra bản gốc “Hịch Chiêu quân” không còn.

+

(7) Khổ thơ này, tôi viết thêm sau khi từ Phú Yên về (29 – 30-9 HB10), để sát hợp với thông tin -  tư liệu hơn. Xem lại bị chú của chú thích (3).

 

 

Bài 3

+

GÀNH ĐÁ ĐĨA

+

thơ tiên đĩa gốm huyền vàng?

kìa em, hoành tráng đã ngàn năm đây

+

chồng chồng đĩa nhạc say say

ngắm cao lớp lớp ảnh đầy đĩa ghi?

+

núi trào cảm xúc, lạ chi

tận nơi, mắt mới ngợp kì công ai

+

ta xây thêm nhé, tháp đài

đĩa ngời biển chữ vun hoài tượng em.

 

 

Bài 4

+

 

BÀI TOÁN ĐỐ VỀ TRUNG THU

+

mỗi tháng một lần tròn đầy

mỗi năm một lần sáng nhất

nếu chia đều trên trái đất

mỗi người đẹp mấy đêm ngày?

+

bài toán đố rất thơ ngây

mãi mãi loài người nát óc

trăng bạc phai dần mái tóc

vẫn trăng nhắc nhở giữa trời

+

nhưng đó là trăng xa xôi!

trăng đời: chén cơm đều trắng

trăng đời: bóng đèn đều rạng

cho dù sáng – mờ, đầy – vơi

+

sáng và tròn trên cõi đời

lại là vượt lên hiện có

mỗi người, mấy thời vượt khó?

lời giải là ở mình thôi!

 

 

Bài 5

+

CUỘC KHỞI BINH NÂU SỒNG 1898

+

tam quan, bình phong nứt

khu bảo tháp gió lùa

chùa cổ đồi Đá Trắng

còn chăng dăm nét xưa?

+

am nghĩa binh Võ Trứ

vọng hoài vó ngựa khua

gạch vôi sao quá mới

dưới gốc thu trăm mùa

+

tìm đâu thư tịch cũ

qua lửa bão đạn mưa

kí ức rêu bụi phủ

chuyện sử đành phai thưa

+

rộng cửa thiền xưa đón

giúp vua lẫn không vua

duy một điều: yêu nước

là chung tấm lòng chùa

+

tượng bồ tát từng lấp

chuông đồng đau vết cưa

Phật nguyên nụ cười Việt

lung linh bóng nắng trưa.

 

+

 

Bài 6

+

TÙY BÚT Ở PHÚ YÊN

+

Đà Diễn xưa, có một nguồn Thạch Hãn (*)

Quảng Trị ơi, vào đây tự bao giờ?

thời mở cõi dẫu khuyết hao lịch sử

nhưng địa chí kia nào phải mơ hồ

+

chiều Sông Hinh, mưa mịt mờ

nghe một thoáng đăm chiêu áy náy

quán cà phê sớm mai, nhã nhạc dăm đời xa ngái

ca từ mỗi thời mỗi khác rồi chăng?

+

một nguồn Đà Rằng: mấy đời tiên tổ đã dừng chân

ở Quảng Trị của cõi miền Thuận – Quảng?

chỉ mang vào Phú Yên tên sông Thạch Hãn

vẫn giữ gốc xa xưa: Thanh Hóa, Nghệ An?

+

nghe cây lá gật gù, nắng bớt phân vân

và chiếc xe băng qua ban trưa ngẫu hứng

ngỡ xoay quanh núi Đá Bia sừng sững

tôi tình cờ tìm thêm một góc nhìn riêng

+

Đá Bia: Phượng hoàng dợm cánh bay lên!

bay lên tầm nhìn Tây Sơn – Gia Long nhất thống

bay lên tầm nhìn Vũng Rô thâm sâu lặng sóng

bay lên tầm nhìn biển bờ Mũi Điện – Trường Sa

+

Tháp Nhạn như cây xương rồng nâu non không già

từ Đa Đảo sóng giạt vào, mấy trăm năm còn lại

đôi mắt Phật, đôi mắt Shiva

trông ra Biển Đông thức mãi

bóng áo lam

như bay lên

trong lời khấn nguyện cuối chiều tà

+

đón chuyến xe về là trăng sáng giữa xanh xa

một trung thu trên Đồi Thơm, thơm ngát

giữa những ước mơ, có ước mơ:

                                    không sai lạc

trên trang sách tuổi thơ.

 

(*) Đà Diễn: sông Đà Rằng ngày nay. Trong các nguồn, các nhánh sông Đà Rằng, có một dòng mang tên Thạch Hãn (theo Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam nhất thống chí”, tập 3, Bản dịch Viện Sử học (người dịch: Phạm Trọng Điềm, hiệu đính: Đào Duy Anh), Nxb. Thuận Hóa, 1992, phần viết về Phú Yên, tr. 72).

 

 

Bài 7

+

TỪ SÔNG CẦU,

NGẮM PHÚ YÊN NHƯ TRANH SƠN THỦY

+

1

ai trên gành cát Phú Yên

quê xa, ai cũng trên triền cát xa?

– biển trời soi chiếu bóng ta

lên mây xuống cát cho xa thành gần

cũng dương liễu rất quen thân

cát muôn đời vẫn trắng ngần Miền Trung

+

nhưng dạt dào sóng Cửa Tùng

thiết tha Mỹ Thủy, trầm hùng Việt Yên! (1)

biển Xuân Đài lại rất thiền

Vịnh Hòa, Xuân Hải nếp phiền phẳng phiu

vuông Ô, lồng Lấm hiu hiu

nuôi bao nguồn sống dưới trìu mến xanh

+

2

giấc trưa Bến Ghé ngọt lành

vương chiều Gành Đỏ nhớ quanh quất nào

mướn Xiêm khẩn đất, tiễn chào (2)

đưa miền Thuận – Quảng gắn vào Phú Yên

Thành Hồ, xe chỉ lướt nghiêng

nghe An Thổ vọng tiên hiền: thần Lương (2)

+

3

khi không chín nhớ mười thương

bạc rồi một nhớ quê hương trong mình!

trội hơn thi sĩ đa tình

hai đèo – guốc võng, trùng trình: Phú Yên

đẹp xinh sơn thủy nên tiên

chút đa tình để chiêu hiền, thuở xưa ?

+

Phú Yên: mười ngón xòe thưa –

núi non – múc cát, thêu thùa Biển Đông

chỉ tay nối lại bao sông?

xe mình đi cũng trong lòng tay thiêng

bạc tình quê, bạc tình riêng

Sông Cầu một sáng còn miên man chiều…

 

(1) Cửa Tùng, Mỹ Thủy, Việt Yên (Cửa Việt) ở Quảng Trị.

+

(2) Theo Quốc sử quán Nguyễn, “Đại Nam liệt truyện”, tiền biên (tập 1), bản dịch VSH., Nxb.Thuận Hóa, 1993, tr. 89.

 

 

Bài 8

Ở GÀNH ĐÁ, HUẾ BỖNG DƯNG TUY HÒA

+

cách đây ngàn năm xa

hình như lũ phù sa

tràn về gần lút núi

hay từng năm, dần dà

núi thành cụm đá gửi

trên cánh đồng Tuy Hòa

+

bao mùa vàng rộng ra

sóng lúa thay sóng biển

vỗ Gành Đá thơ ca

sông Ba cùng cất tiếng

trầm đục và ngân nga

trên bao la Tuy Hòa

+

tóc em là sông Ba

tay em, mùa vàng đó

ôm anh trong tình ca

cho Gành Đá anh thở

đừng bắt anh khuyụ đổ

trên mênh mông Tuy Hòa

+

tình ta ngàn năm qua

bao vun bồi, không đếm

bao lần chung môi nếm

sao ào ạt, khi xa

một mình, không chăn đệm

Huế bỗng dưng Tuy Hòa!

 

  

Bài 9

+

TIỀN CHIẾN VÀ ĐỒNG CAM

 

rất nhiều nơi hẳn bình thường

ở nước mình sao thấy lạ

nỗi chiến tranh còn vật vã

phu phen nô lệ được thờ!

+

giặc Pháp thương chi đồng khô

sợ đói khiến dân nổi dậy

chúng mong thóc đầy hạt mẩy

tàu viễn chinh há họng to

+

nhưng ta thương bao nhà thơ

phần nào văn nô thuở đó

ép lệ tình duyên òa đổ

cũng như dòng kênh Đồng Cam!

+

thắp hương, cháy nỗi đau thầm

chết đập khác gì chết giấy

Tiền Chiến là Đồng Cam đấy

chừng nay tim ấm lòng no

+

chiến tranh đau đến bao giờ?

cách nào niềm đau chóng dứt?

người thắng khơi trong – vớt mục

lạ, nhưng bỡ ngỡ gì đâu!