Văn hoá chửi của người Việt có từ rất lâu rồi. Chửi có trong đời sống thường nhật. Chửi có trong ca dao tục ngữ. Chửi có trong thơ văn bác học của Hồ Xuân Hương , Nguyễn Du , Nam Cao … Kinh điển nhất phải là câu chửi của cụ Cao Bá Quát:
Ba hồi trống giục mồ cha kiếp
Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời.
Bài thơ Mẹ tôi chửi kẻ trộm còn được giải thưởng của HNV . Thậm chí có người chửi cả “thượng đế “ ( Bún chửi ).
Rất tiếc cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu đầy đủ về văn hóa chửi.
Có thể nói chửi vừa là thói quen , vừa là thú vui , vừa là vũ khí của kẻ yếu .
Có vô số cách chửi khác nhau:
Chửi mắng, Chửi bới, Chửi đổng, Chửi nhau, Chửi rủa, Chửi thầm, Chửi thề, Chửi đệm, Chửi tục, Chửi đểu, Chửi bâng quơ, Chửi vu vơ, Chửi thậm tệ, Chửi bóng, Chửi gió, Chửi cạnh khóe, Chửi yêu, Chửi chó mắng mèo, Chửi như tát nước, Chửi như vặt thịt, Chửi vuốt mặt không kịp, Chửi ngoa ngoắt, Chửi điêu toa, Chửi móc máy, Chửi cả làng cả tổng, Chửi có bài có bản, Chửi như hát hay, Chửi không biết mệt, Chửi thẳng vào mặt, Chửi sau lưng…
Hình như trời phú cho những người nghèo khổ, sống dưới đáy xã hội một cơ quan phát âm, đúng ra là cơ quan phát thanh, có độ vang đủ phủ sóng khắp “địa bàn” cư trú.