Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Hoàng Quang Thuận và thơ thiền

Huỳnh Văn Úc
Chủ nhật ngày 29 tháng 9 năm 2013 6:24 PM

Sáng ngày 22/9/2013 tỉnh Quảng Ninh đã long trọng tổ chức Lễ đón nhận bằng tôn vinh quyển sách “Thi Vân Yên Tử” của ông Hoàng Quang Thuận do Đại học Kỷ lục thế giới trao tặng. Đây là tin đăng trên cand.com ngày 23/9/2013.  Cái tên Trường Đại học Kỷ lục thế giới làm cho tôi ngờ ngợ vì dùng các công cụ tìm kiếm trên mạng không thể nào tìm ra một trường có tên như thế. Vậy mà ông Văn Thịnh-tác giả bài báo-cho đăng bức ảnh trong đó có ông Thomas Bains là Hiệu trưởng của trường này có lẽ để khẳng định trường này là có thật. Sách Kỷ lục Guinness (The Guinness Book of Records) là một quyển sách được xuất bản hàng năm để ghi lại những kỷ lục được công nhận trên toàn thế giới. Có lẽ ông Thomas Bains-Tổng thư ký Tòa soạn của cuốn sách này- thấy cuốn sách có kích thước mang tầm kỷ lục thế giới nên đã đưa tên cuốn sách vào Kỷ lục Guinness. Với độ dày 300 trang, kích thước 125x80x16 cm, nặng 120 kg, bìa và gáy sách được chế tác bằng gỗ quý với nhiều hoa văn được chạm khắc tinh xảo thì không cứ là ông Thomas Bains mà ngay bản thân tôi cũng nghĩ rằng nó xứng đáng được đưa vào Sách Kỷ lục Guinness của thế giới.

Những dòng trên đây tôi viết về hình thức của cuốn sách và bây giờ ta hãy bàn đến nội dung và hoàn cảnh ra đời của nó. Ông Hoàng Quang Thuận kể rằng: “Ngày 24/11/1997 tôi cùng với đoàn phật tử miền Nam do sư thầy Huệ Giác ở Giáo hội Phật giáo Đồng Nai ra Bắc viếng thăm Yên Tử. Chúng tôi đang trên đường lên núi, đến chùa Hoa Yên thì có một người đàn ông rao bán một con rắn nặng tầm chục ký, trên đầu có một chiếc mào màu đỏ. Tôi dừng lại mua với giá 650.000 đồng, sư thầy Huệ Giác đặt tên rắn là Kim Xà. Chúng tôi mua để phóng sinh, khi được thả Kim Xà ngỏng cao đầu gật 3 cái như chào trước khi bò vào rừng. Từ Yên Tử trở về Hà Nội, trong một căn nhà ven sông Hồng, 3 đêm liền tôi đã viết được tập Thi Vân Yên Tử gồm 143 bài”. Ngoài Thi Vân Yên Tử ông Hoàng Quang Thuận còn viết Hoa Lư thi tập gồm 121 bài thơ cũng trong một hoàn cảnh đặc biệt. Ông kể: “Trong dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long (2010), tôi và nhà thơ Dương Kỳ Anh đi Ninh Bình nghỉ ở Khách sạn Hoa Lư. Chúng tôi trao cho nhau mỗi người một xấp giấy A4 đề làm thơ, tôi nhận 141 tờ có chữ ký của Dương Kỳ Anh và ngược lại. Đến quá 12 giờ đêm tôi thấy lạnh và choàng tấm chăn ngồi viết. Đến 4 giờ sáng thì những tờ giấy đã bày kín bàn với tất cả 121 bài thơ”. Theo lời kể của ông Hoàng Quang Thuận, nhiều người đã nhẩm tính rằng ông viết một bài thơ của Hoa Lư thi tập trong chưa đầy hai phút, bài này kế tiếp bài kia và ngòi bút không hề rời khỏi mặt giấy. Thật là kinh hoàng!

Nhiều nhà thơ, nhà văn và nhà phê bình-trong số đó có Trung tướng Hữu Ước và nhà thơ Hữu Thỉnh- có tuyên bố rằng thơ của ông Hoàng Quang Thuận là thơ Thiền. Ông Hoàng Quang Thuận với tất cả đức khiêm tốn nói rằng ông không dám nhận là tác giả những bài thơ do chính ông viết ra mà là: “ do tiền nhân mượn bút tôi, sai khiến tôi chép ra”. Việc này làm ta nhớ lại lời tâm sự của cố nhà thơ Hoàng Cầm khi ông viết bài thơ Bên kia Sông Đuống. Ông viết bài thơ này vào tháng 4/1948 sau một chuyến đi vào vùng địch hậu với những cảm xúc còn nóng hổi mắt thấy tai nghe, và ông viết trong vô thức cứ như ai kể bên tai mình mà ông chỉ là người ghi chép lại. Dẫu sao bài thơ đã góp phần ghi tên tuổi của Hoàng Cầm như là một nhà thơ lớn trong lịch sử thi ca cận đại. Vì vậy tôi có lời khuyên ông Hoàng Quang Thuận hãy cứ nhận Thi Vân Yên Tử và Hoa Lư thi tập là thơ của ông đi, rồi ông sẽ để lại dấu ấn của mình trong lịch sử thi ca Việt Nam hiện đại. Tôi không dám chắc dấu ấn đó là màu đỏ của vết son hay màu đen của mực tàu, việc đó để cho hậu thế phán xét. Tôi có lời khuyên với ông-và với tất cả những ai dù nổi tiếng đến đâu-đừng ngộ nhận rằng hai tập thơ đó là hai tập thơ Thiền.

Muốn biết thế nào là thơ Thiền tôi khuyên ông Hoàng Quang Thuận hãy tìm đọc Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục giảng giải-Hòa thượng Thích Thanh Từ-Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. Chí ít thì ông cũng nên đọc lấy một bài, thí dụ bài thơ sau đây:
Thủ nê ngưu
Nhất thân độc thủ nhất nê ngưu,
Đẳng tỵ khiên lai vị khẳng hưu.
Tương đáo Tào Khê đô phóng hạ,
Mang mang thủy cấp đả viên cầu.
Dịch nghĩa (của Huệ Chi):
Chăn con trâu đất
Một mình chăn một con trâu đất,
Xỏ mũi lôi theo chẳng chịu rời.
Vừa tới Tào Khê buông thả quách,
Mênh mông nước cuộn quả cầu trôi.
Và ông hãy đọc kỹ bài giảng của Hòa Thượng Thích Thanh Từ để hiểu rằng “Người tu hành phải biết chế ngự cái tâm của mình, không buông thả để đắm chìm vào ngũ dục.  Ngũ dục là sắc-nữ sắc là đối tượng tham dục của con mắt; thanh-là âm thanh êm ái, là đối tượng tham dục của tai; hương- là mùi hương thơm, đối tượng tham dục của mũi; vị- là mùi vị thơm ngon, đối tượng tham dục của lưỡi; xúc-là sự đụng chạm của da thịt, đối tượng tham dục của thân. Người tu thiền chế ngự cái tâm của mình cũng giống như mục đồng chăn trâu vậy”. Thiền là như vậy đó ông Hoàng Quang Thuận ạ! Tôi đã đốt đuốc soi kỹ hai tập thơ ông đã viết mà chẳng thấy Thiền nó ở đâu cả.

Một số dịch giả như Nguyễn Đình Tuyến, Hoàng  Hữu Đản đã dịch hai tập thơ sang tiếng Anh và ông Hoàng Quang Thuận đã làm hồ sơ để gửi tham dự giải Nobel văn chương. Giải này do Viện Hàn lâm Stockholm Thụy Điển xét tặng. Ông làm như thế là đưa người ta vào thế khó xử vì những ủy viên của Hội đồng xét tặng chẳng có mấy người biết thế nào là Thiền đâu ông ạ! Theo tôi ông nên gửi hai tập thơ đến các Thiền viện nổi tiếng trên thế giới như Dhammakaya ở Thái Lan, Thiên Long Tự ở Nhật Bản, Yiga Choling ở Ấn Độ để các thiền sư đọc và cho ý kiến. Bản tiếng Việt của hai tập thơ ông nên gửi đến Hòa thượng Thích Thanh Từ. Ngài là một thiền sư nổi tiếng của Phật giáo Việt Nam, người có công phục hưng dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Tôi là một người lính già đã nghỉ hưu, học vấn chẳng đáng được bao nhiêu nên trong bài viết này có chỗ nào viết không đúng thì trước hết xin ông Hoàng Quang Thuận đừng có mếch lòng, sau nữa các độc giả thấy có chỗ nào sai sót xin vui lòng lượng thứ.