Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Người nhà quê họ Phạm - sâu lắng một hồn thơ

Bùi Thị Sơn
Chủ nhật ngày 29 tháng 9 năm 2013 6:32 PM

Người ta say mê một bài thơ, trước hết vì họ cảm thấy đó là bài thơ hay, đồng điệu với tâm hồn và gu thẩm mĩ của họ. Với tôi: thơ hay là thơ có nội dung sâu sắc, thấm đẫm chữ tình và được viết ra bằng hình thức biểu cảm phù hợp, không trộn lẫn với bất kỳ ai. Tôi yêu thơ của “Người nhà quê họ Phạm” bởi thơ anh chan chứa tình yêu: yêu gia đình bè bạn, yêu quê hương đất nước và  trăn trở  nỗi đau đời, thương đời da diết. Thơ anh mộc mạc, giản dị mà sâu lắng !
          Thật cảm động khi tuổi đà xế bóng anh mới in thơ và bài thơ anh cho in đầu tiên là bài thơ tặng mẹ:
“Con hăm hở vội về thăm mẹ
Tay mẹ gầy khô trong tay con
Giọng mẹ run run, giọt lệ tròn
“Nước mắt chảy xuôi” - lời giản dị
Khi hiểu - tóc xanh con chẳng còn”.
                                    (Gửi mẹ của con)
Anh xót xa, ngậm ngùi khi mẹ đã đi xa:
“ Lâm râm con khấn một mình
Con mời mẹ bát chè xanh trưa hè”.
Người mẹ tảo tần, vất vả lo toan việc nhà cho chồng lo việc nước:
“Chiến tranh mấy cuộc kéo dài
Gồng vai thay bố nơi ngoài chiến khu”.
Người mẹ một đời “vo để cho tròn” quên mình chiu chắt cho con, cho cháu:
“Tay kim chỉ, miệng hát ru
Khêu đèn lụi bấc, trăng lu tảo tần
Dạy con đèn sách lập thân
Bát chè xanh cũng chia dần làm ba”.
Người đọc rưng rưng nhớ tới một thời khói lửa, một thời bao cấp gian nan vất vả thiếu thốn trăm bề đến bát chè xanh “cũng chia dần làm ba”. Bây giờ, tưởng nhớ đến cha mẹ khuất núi, người ta thường cúng những món sơn hào hải vị như để bù đắp thiệt thòi khi sống trên dương thế cha mẹ mình không được thụ hưởng. Người nhà quê họ Phạm khác hẳn, anh tưởng nhớ đến mẹ, tri ân mẹ bằng ký ức ân tình đau đáu:
“Bao năm rồi mẹ đã xa
Trà xanh dâng mẹ chút là lòng con”
(Con dâng mẹ bát chè xanh).
Anh luôn nhắc nhủ các con nhớ đến bà nội:
“Có một thời như thế
Sữa phân phối ngặt nghèo
Gạo sổ, thịt tem, nước giếng đèn dầu
Bà nấu cơm, mùn cưa khói lòa đôi mắt…
Người bán gạo,
Bên cửa sổ cao lưng trời
Bà còng lưng,
Xếp hàng không với tới”.
                                        (Ngày ấy)
Anh tự hào về người  cha đã hiến dâng tuổi thanh xuân đẹp nhất “nơi ngoài chiến khu” nhưng lại xót xa, đau đớn khi cha già cô đơn  khắc khoải ngóng đợi các con - người đi du học tít tận trời Âu , người xông pha nơi hòn tên mũi đạn :
“Giật mình, đau nỗi ngày xưa
Cha ta tựa cửa mong chờ các con”
                                        (Thời mình)
Rồi đến ngày Cha mãi đi xa…
Một sớm xuân, nghe vẳng khúc Đường trường réo rắt rung trong gió, anh liên tưởng :
“Nhớ Cha lòng con đau thắt
Khúc Đường trường Cha kéo trong đêm”
Anh nhớ đến “làn điệu chèo” và bóng hình người cha “với cây đàn in nền cửa”:
“Biền biệt các con
Cha quạnh quẽ một mình !”
                                (Khúc Đường trường)
Người con hiếu đễ ấy vì nghĩa cả mà sẵn sàng chiến đấu một mất một còn với kẻ thù không hề tính toán thiệt hơn được mất nhưng khi cha khuất núi, anh luôn day dứt cảm thấy mình có lỗi:
“ Cho con tạ tội trước vong linh
Dù thế sự, vẫn mong Cha xá tội…
Bao sợi tóc trên đầu- ơn Cha
Và bấy nhiêu tội chúng con”.
                            (Trước Giao thừa Kỷ Sửu 2009)
Khi cả mẹ và cha đi vào cõi vĩnh hằng, kỷ niệm tuổi thơ được sống trong tình yêu thương của mẹ cha vẫn trăn trở hoài trong những trang thơ anh:
“ Về Hà Nội, con về nơi Cha Mẹ
Cùng với con, mưa bụi cũng theo về
Se thắt heo may tràn mí mắt
Đón lạ quen nhảy nhót hút triền đê”.
                                ( Nước mắt chảy xuôi)
Những bài thơ về cha mẹ được anh viết ra bằng  ngôn từ mộc mạc, giản  dị và cảm xúc chân thành, không hề sử dụng các biệp pháo tu từ về từ, về câu, về âm thanh, ngữ nghĩa… Cái thật có lối đi riêng vào tâm hồn độc giả, nhịp đập yêu thương từ trái tim vọng đến muôn trái tim tìm sự cộng hưởng…Không phải ngẫu nhiên khi viết về cha mẹ lúc còn sống, anh viết bằng chữ thường như một danh từ chung nhưng khi Cha Mẹ đã vĩnh viễn đi vào cõi vĩnh hằng, anh lại viết bằng chữ hoa như một danh từ riêng! Một danh từ thiêng liêng cao quý !
Sau Cha Mẹ là tình cảm thủy chung như nhất anh giành cho người bạn đời đã cùng anh lên thác xuống ghềnh suốt mấy chục năm trời:
“Giữa Khoảnh khắc
Chiều vào tối,
Hai mái bạc
Mờ in,
Nhòa sương khói,
Tựa cửa,
Đợi chờ,
Thả tâm linh
Theo chạng vạng ước mơ…
Hoa đèn hồng lên khi đêm sắp tới !”
(Chạng vạng)
Bài thơ viết theo thể tự do và rất hình tượng. Lớp trẻ sinh ra, lớn lên sau thời bao cấp khó hình dung ra “hoa đèn” lúc “chạng vạng” nó như thế nào, nhưng ai đã sống qua cái thời “tem, phiếu, vé” đọc đến những câu thơ này khó tránh khỏi cảm giác cay cay  nơi sống mũi khi hồi tưởng một thời  gian nan cơ cực, thiếu thốn trăm bề. Hồi ấy dầu thắp sáng hàng tháng cũng phải phân phối, xếp hàng mua theo tiêu chuẩn quy định. Mọi nhà đều dùng chiếc đèn hoa kỳ nhỏ xiu để tiết kiệm dầu. Phần bấc đèn đã cháy thành than nhưng được ngọn lửa nung đỏ lên trông như một bông hoa ở đầu sợi bấc được gọi là hoa đèn.
Bài thơ “Chạng vạng” có sự ẩn dụ độc đáo sáng tạo. Từ nghĩa đen chỉ thời khắc nhá nhem tối khi mặt trời vừa lặn , tác giả liên tưởng đến tuổi già của mình và người bạn đời đã từng trải qua bao thăng trầm dâu bể, từng chứng kiến,chiêm nghiệm giữa  “chạng vạng đất trời” là chạng vạng “kỷ niệm trôi”, “nếp xưa”,  “ hồn quê”, chạng vạng “chiến tranh”, “bình yên” và “ nhân tình chạng vạng trong ngữ điệu lai căng!”. Điều đáng nâng niu trân trọng là đôi vợ chồng già ấy luôn kề vai bên nhau: “…như bao đận em và anh/Thầm thì về niềm vui và bất hạnh/về đất, về nước, về tình sâu, nghĩa nặng/Chuyện cửa nhà, chuyện con trẻ mai sau…”. Người thơ ấy động viên, nhắc nhủ vợ cũng là tự động viên, nhắc nhở mình:
“Nào em!
Quyết không chạng vạng tâm
Trước phút giây chạng vạng!
Máu Lạc Hồng còn đỏ trong huyết quản,
Ta giữ bình tâm
Cho trẻ đón bình minh…”.
Tôi hình dung hình ảnh hai ngọn hoa đèn sáng lung linh, cháy hết mình tỏa sáng trong nhau, cho nhau đến phút cuối thanh thản, tự tin, mãn nguyện, tự hào về thế hệ kế cận “đón bình minh”.
Hạnh phúc nào bằng khi tuổi đã xế chiều, không còn phải vất vả lo toan việc nước hay kiếm kế mưu sinh, ta vẫn được sống  thanh thản bên  người bạn đời chung thủy và những đứa con ngoan ngoãn, hiếu thảo, thành đạt? Cuộc đời Người Nhà quê họ Phạm trải bao nhiêu sóng gió thăng trầm nhưng anh thật là  hạnh phúc bên người vợ hiền và hai người con ngoan cùng đàn cháu nhỏ dễ thương. Anh là người kiệm lời, kiệm chữ nhưng đằng sau mỗi câu chữ của anh, tôi như nhìn thấy bóng dáng thấp thoáng của chị. Hơn mười năm rồi, chị  cận kề bên anh như hình với bóng để chăm lo cho anh từ những việc nhỏ nhất anh muốn làm mà “ lực bất tòng tâm”. Anh  nhắc con nhớ lại một thời gian nan vất vả:
“ Cả hai con khi hai tháng nằm nôi
Sương ướt mặt vẫn theo mẹ đến lớp
Ba giờ đêm bố nghe con khóc
Cháo nghiền qua rổ mau
Gạo phiếu ninh muối và rau
Nuôi các con thay sữa”.
                                (Ngày ấy)
Để đến hôm nay các con khôn lớn và thành đạt. Anh nghẹn ngào vui sướng khi  cô con gái yêu đã trở thành một thạc sĩ ngữ văn dạy tại một Học viện quân sự :
“Học trò tặng con hoa
Con mang về tặng bố
Bố lặng im,
Lòng rạng rỡ
Con là cô giáo rồi ư!
…Nay giữa giảng đường,
Học trò tặng con hoa
Bố muốn cùng con bay về quê nhà
Dâng bó hoa trước tổ tiên
Và cùng con bái lạy”.
                            (Nói chuyện với con gái)
Những câu thơ chân mộc giản dị mà thẳm sâu ân nghĩa cội nguồn.
Và hạnh phúc vỡ òa khi cậu con trai cưng đã trở thành Tiến sĩ Y khoa giảng dạy ở học viện danh tiếng Quân y, dẫu mẹ cha đã ngả bóng chiều:
“Bố đã già
Bây giờ chiều chiều tựa cửa
Đón những tia ấm cuộc đời…
Anh giáo của bố ơi!
Bố tặng con bài thơ
Với niềm tin yêu, bình thản tuyệt vơì
Nhân ngày nhà giáo
Cả nhà ta nối nghề hành đạo
Với phương châm:
“Giấy rách giữ lề”.
                            (Thơ viết cho con trai yêu quý)
Một sự tiếp nối tuyệt vời! Bình dị mà thiêng liêng biết bao tấm lòng gia đình nhà giáo.
Anh giành tình cảm thân thương trìu mến cho đứa cháu mới gần ba tháng tuổi: đẩy xe cho cháu  dạo chơi, miệng à ơi “Câu Kiều ru theo gió” như gửi gắm nơi cháu ước nguyện lưu giữ những giá trị tinh thần (Ông cháu). Còn chị thì “còng lưng” tiện mía cho cháu:
“ Đầu bà gật lia lịa,
Theo nhịp chày xuống lên
Rồi lọc mấy nước liền
Nước mía thơm ngào ngạt”.
                                    (Bà cháu)
Tôi từng đọc ở đâu đó câu nói: Tình yêu quê hương đất nước bắt nguồn từ tình yêu gia đình, làng xóm, yêu  thiên nhiên tươi đẹp…Là họa sĩ, lại sinh ra, lớn lên trong gia đình cách mạng có truyền thống say mê âm nhạc, thơ của “Người nhà quê họ Phạm” hội tụ  đủ tố chất “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc”. Điều tôi tâm đắc khi đọc thơ anh là khi tả cảnh, thơ anh bao giờ cũng ngụ tình:
“Đa đoan chi mấy cao xanh
Heo may lại cướp giọt tình của mưa”
(Vầng trăng trong mưa)
“Khoảng khắc hôn hoàng
Dễ chìm trong xao lãng!
Rất ngắn thôi,
Sáng đẹp lung linh
Trước phút nghỉ ngơi
Cháy rực hết mình”.
                                (Khoảnh khắc hôn hoàng)
Là người con hiếu đễ, người chồng chung thủy , người cha, người ông yêu thương cháu con hết mực, Người nhà quê họ Phạm” còn là người bạn, người đồng chí chân chính – coi tình nghĩa  trên tất cả:
“Ta đâu khát rượu,
Khát tri kỷ cùng ta…
Tri kỷ ơi! Nào hãy nâng lên
Trong im lặng có điều ta muốn nói…”
                                        ( Rượu)
Anh gửi niềm  nhớ thương, đồng cảm với bạn bè nơi đất khách quê người:
“Ai Lao. Gió Lào
Trời Tây. Viễn xứ.
Mịt mù. Gió hú.
Lao Bảo. Đèo  cao
Buồn nao nao
Đất khách
Đìu hiu. Lau lách
Rừng chiều…
Chạnh lòng. Thương nhớ
Linh thiêng,
Theo gió. Về đây!
Câu thơ,
Từ mắt,
Cay cay…”.
                        (Thơ gửi bạn)
Bài thơ kiệm lời, từ ngữ mộc mạc giản dị nhưng với cách xuống dòng, ngắt nhịp liên tục, người đọc cảm được tình cảm dồn nén, nấc nghẹn khi nhớ đến bạn bè viễn xứ trong từng câu chữ của “người nhà quê họ Phạm”.
Anh từng là nhà khoa học danh tiếng có nhiều năm học tập tại Liên Xô cũ, từng tham gia quân ngũ và bị nhiễm chất độc hóa học, bị thương nơi chiến trường… nhưng anh khiêm nhường không muốn nhắc đến vết sẹo của riêng mình:
“Vết sẹo ơi! Sao mi chai lên thế!
Những bàn tay đầy sẹo của mi đây
Cũng một thuở. Hình  như, linh cảm thấy
Sự dịu dàng đau đớn chốn bàn tay…

Thôi đừng nhé, nhắc chi về quá khứ
Thịt da kia cũng thịt da này!
Bom đạn đã xa về dĩ vãng
Những bàn tay tiếp sức những bàn tay”.
                                    ( Hội nhập sẹo)
Nhân xem bộ phim “Hoa xương rồng trên cát”, anh liên tưởng:
“Những mảnh xương vụn nát,
Cùng đất và cát
Lẫn lộn vào nhau…

Chinh chiến qua lâu,
Bàng hoàng còn đó

Tôi nhớ,
Thời rực đỏ,
Thời lính trẻ,
Anh, tôi…

Biển cát lung linh hơi nóng ngút trời,
Hoa xương rồng đỏ thắm…

Có phải không?
Từ nơi xa thẳm
Anh hiện về đỏ rực không gian…

Nhắm mắt, tay đưa, nước mắt tuôn tràn,
Cố ôm ấp một bóng hình đồng đội”.
    (Hoa xương rồng trên cát)
Chiến tranh đã qua, nhưng nỗi đau còn đó đâu chỉ là nỗi đau thế xác mà còn là những suy tư trăn trở không chỉ riêng mình:
“Bom đạn đã qua.
Vết thương vờ ngủ…
Ôi! Cái bình yên trong bão lửa
Hãy về, ru ngủ trái tim ta!
Cái thời khói lửa đã xa
Mà nghe gió rít ngỡ là chiến tranh.
Hiền hóa bến nước đồng xanh
Gió đừng rít để yên lành nước non”.
                                        (Yên bình)
Hòa bình, dù mang bao vết thương trên mình, anh vẫn còn trái tim nồng ấm và khối óc mẫn tiệp để phấn đấu cho sự nghiệp khoa học và sự nghiệp giáo dục… Đến ngày nghỉ hưu, anh khiêm nhường giản dị trở về với cuộc sống đời thường như biết bao con dân nướcViệt, gắn bó với số phận muôn dân:
Là người  tinh  tế, nhạy cảm, thơ anh đau đáu nỗi buồn thương:
“Mưa giăng mắc nỗi buồn nhân thế
Mờ chân mây dâu bể đón đưa
Ai làm bão tố gió mưa
Đời chan nước mắt, héo dưa kiếp người”.
                            (Đau lòng lũ lụt miền Trung)
Anh buồn cho thế thái nhân tình “chạng vạng trong ngữ điệu lai căng”.
Trước hiện tượng tự nhiên bất bình thường gây nên những hệ lụy buồn cho người nông dân, anh trở trăn suy ngẫm về những vấn đề thế sự:
“…Ngỡ ơn mưa móc nhặt thưa
Nơi thì nứt nẻ, chốn mưa trắng bờ
Thần nông nửa tỉnh nửa mơ
Mưa giăng lạc vụ, bơ vơ hạt buồn”
                        (Mây mượn gió tạo muôn kỳ ảo)
Thơ anh có nhiều bài  buồn - nhưng đó là nỗi buồn lớn lao, buồn cho mọi người chứ không phải  buồn cho “cái tôi” nhỏ bé của riêng mình - nỗi buồn ấy là nỗi buồn của con người có lương tâm và trách nhiệm với con người, với cuộc đời. Nỗi buồn ấy làm thanh lọc tâm hồn ta chứ không phải nỗi buồn bi quan, yếm thế. Suy ngẫm về những  lối mòn từ “nếp tư duy” đến cả trong “giấc mộng” anh đau lắm:
“Lối mòn - phẳng đến nôn nao!”
Nhưng những “lối mòn” trì trệ ấy không ngăn cản được cái nhìn lạc quan, tin yêu say đắm cuộc đời gần gũi, thân quen:
“Cuối lối mòn - mùa xuân ơi, da diết làm sao!
Theo lối gió, hanh hao đường quen thuộc
Ta đi, cả trong mơ, không chùn bước
Cuối lối mòn, em - ánh lửa - xuân ơi !”
                            (Cuối lối mòn - mùa xuân ơi!)
Hòa niềm vui lãng mạn của anh, ta tin rằng  các giá trị văn hóa hóa truyền thống vẫn trường tồn:
“ Người xưa chắc hẳn về chơi Tết,
Mủm mỉm cười âm cả cõi dương”.
                            ( Nhớ cụ Vũ Đình Liên)
“Dù là kẻ trần gian nơi thế tục,
Nhưng cõi lòng hướng về Trúc - Trúc ơi!”
                                    (Ngắm tranh Trúc)
Cây trúc thẳng ngay là biểu tượng chi chí khí thanh tao của người quân tử. Phải chăng anh viết hoa chữ Trúc như một danh từ riêng để gửi gắm cái chí của mình?
     Người nhà quê họ Phạm từng viết: “Ngoài nghiệp chính, thì văn chương và hội họa là người tri kỷ chân thành và trung thực nhất của đời mình”. Ngắm những bức tranh “Mẹ tôi”, “Tĩnh vật”, “Nắng sông Thương”. “Nắng chiều trên cảng than nhà máy Phan Đạm”, “tứ quý”,” “Trúc”, “Chiều thu ngoại ô Maskva”… và nhất là những bức tranh anh vẽ 10 năm trở lại đây, tôi luôn lặng người đi, thành kính, cảm động. Càng xúc động hơn khi biết đã nhiều năm nay, anh nằm một chỗ, buộc cây cọ vào tay để vẽ và đau đớn gõ từng con chữ lên bàn phím để làm thơ. Phải yêu đời đến thế nào, người thơ ấy mới viết được những câu thơ gan ruột như thế này:
“Bất động lâu mới hiểu
Ầm ỳ vọng đêm ngày
Tiếng đời ôi xa thế
Nặng trĩu mà nhẹ bay.”
Anh khao khát tình bạn- như khao khát được hít thở khí trời , giao hòa cùng thiên nhiên, vũ trụ:
“Lúc bạn bè ào đến
Căn phòng ngập gió mây
Đa tạ cùng bạn hữu
Mang trời đất vào đây”.
                                        (Ấm nắng)
Ngắm tranh, thưởng thức thơ của “Người nhà quê họ Phạm”, tôi thấy mình thu được lợi lạc nhiều lắm - đó là lợi lạc về tinh thần vô giá mà những người viết chuyên nghiệp chưa chắc đã đem lại được cho mình, dẫu họ viết rất hay và có bài bản... Tôi muốn sống tốt hơn, có trách nhiệm hơn với gia đình, bè bạn, với công việc và với chính bản thân mình khi còn chưa quá muộn. Dẫu thơ anh chưa phải là xuất chúng, nhưng những giá trị nhân bản về cái Chân - Thiện -Mĩ anh đem đến cho tôi là vô giá. Tôi biết: Với anh, thời gian quý hơn vàng . Anh đang chạy đua với thời gian để chiến thắng bệnh tật, để sống có ích hơn cho gia đình, bè bạn và cho cuộc đời như anh đã và đang sống như thế! Tình yêu quê hương đất nước của anh bắt nguồn từ tình yêu trong gia đình, làng xóm, yêu thiên nhiên, cây cỏ... Đó là động lực để anh cầm súng chiến đấu, là động lực thôi thúc anh vươn lên trở thành nhà khoa học sáng giá.
Trên diendanthivien.net, mọi người gọi anh là Pa Ven. Anh khiêm tốn nói: “Đừng so sánh tôi với Pa Ven”.
Phó Tiến sỹ - giáo sư Nguyễn Kim Thiết – một người bạn đồng niên dạy tại Trường Đại học Bách khoa đã viết tặng anh bài thơ:
“Ngày ấy Pa Ven bị liệt
Bị liệt đâu còn cảm thấy đau
Tôi đau nhức nhối mình tôi biết
Chẳng dám so được với ai đâu”.
Và anh đã có một bài họa khiêm nhường và rất lạc quan yêu đời, yêu người:
“Nửa liệt, kém Pa Ven bại liệu?
Và đau, chắc như tôi đang đau?
Nhưng khi bạn hữu mang Xuân đến,
Cười sún cả răng, kém ai đâu?”
Người thương binh - nhà khoa học mang bút danh “Người nhà quê họ Phạm” còn có một bút danh khác cùng ý nghĩa là Phạm Thôn Nhân. Anh tên thật là Phạm Ngọc San - một bloger thân thương, giản dị, khiêm nhường của Làng Thơ bên Thi viện.net, blog tiengviet.net, blog spot.com… Đã bước qua cái tuổi “cổ lai hy”,  với ba tập thơ “Vầng trăng trong mưa”, “Hoàng hôn không yên lặng” và “Chạng vạng hoa đèn”, thơ anh  làm cho tôi thấm thía hơn bao giờ hết câu nói của cổ nhân: “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”.Thơ anh như một “trái chín muộn”, trải qua bao dông bão cuộc đời, chắt chiu từ giọt sương mai, gom góp từ tia nắng ấm, lặng lẽ dâng tặng đời  hương vị ngọt thơm ...

                        Lai Châu, ngày 2 tháng 9 năm 2013
                                Bùi Thị Sơn