Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Bình thơ

xx
Thứ bẩy ngày 28 tháng 9 năm 2013 9:18 PM
  NHỚ

Tôi ở dưới miền xuôi
Lên rừng xanh theo học.
Cha mẹ tôi già rồi
Sống chuỗi ngày thảm khốc.

Ôi quê hương xa vời
Một đi không trở lại!
Khói lửa vẫn ngút trời
Đau thương càng tê tái….

Ôi quê hương xa vời
Liễu xanh và cát trắng.
Mẹ nhìn mãi chân trời
Tìm đứa con xa vắng….


            CỘT ĐIỆN

Một chiếc cột điện gầy nhẳng
Đúng chơ vơ bên đường tàu hoang vắng
Tồi từ trong rừng bước ra
Dừng lạn nìn cảnh buồn thầm lặng.

Những dây điện kia đi về đâu?
Có đến tận nhà ta bên phố đầy hoa phượng?
Có đến tận mái trường xưa vang tiếng cười sung sướng.
Tuổi thơ giờ đi xa
Còn ta
Với mưa gió dãi dầu…


        CÁNH CHIM CHIỀU

Khi ta ra đi, dòng sông trôi phẳng lặng.
Khi ta ra đi, khói chiều thành mây trắng
Khi ta ra đi, có cánh chim chiều cô đơn
Tiễn chân ta tần ngần, gập ghềnh từng chặng.

Giờ đây ta nhớ cánh chim chiều da diết
Đến bao giờ mới thấy lại dòng sông?
Giờ đây rừng xanh và tiếng dế kêu tha thiết
Cánh chim chiều đã về chốn mông lung…

     Nhà thơ Lương An cho rằng bài “Nhớ” thật dễ thương, ngây thơ chất phác. Đó là thơ của một cậu bé nhớ mẹ nhớ cha nhớ làng nhớ xóm. Nhà thơ đoán quê của tác giả thuộc vùng ven biển với liễu xanh cát trắng. Nỗi nhớ thật da fiết. Thơ có uỷ mị, tiểu tư sản không? Bề ngoài thì làm người ta buồn nhớ khôn nguôi, nhưng bên trong chính là tiếng nói dục dã khiến ta phải quyết tâm nhanh chóng làm quê nhà thoát tay giặc. Sâu xa mà nói là vậy đó. Nhưng dầu sao vẫn phải cất giấu đã, để rồi xem…Bài “Cột điện” đúng là của một anh thị dân nhớ phố phường, nhớ hàng đèn đường, nhớ những tầng lầu mái ngói. Phản xạ của anh ta tự nhiên: thả tâm hồn theo theo dây thép về với phố xa, với mái trường rộn rã tiếng cười. Dây thép đây là tiềm thức, là cái sâu lắng của tác giả. Lương An cho biết ông từng ở thành phố nhiều năm, và mỗi lần nghe tiếng còi xe từ xa vọng lại là thấy lòng nhức nhối. Bài “Cánh chim chiều” chắc chắn của một anh có quê chạy dọc sông Thạch Hãn, thuộc bờ Nam. Quê anh ta quá êm đềm ngày trước với khói lam chiều và những cánh chim không mỏi. Lương An chia sẻ hoàn toàn với các tác giả trẻ những tình cảm mãnh liệt ấy. Tuy nhiên ông thấy các tác giả đều có chút bi quan về ngày mai. Gần như ai cũng nhớ nhà một cách tuyệt vọng. Không, dầu kháng chiến còn lâu mới kết thúc nhưng ta phải tin là có ngày mai. Các tác giả cũng có phần cường điệu trong nhiều chi tiết, chẳng hạn Minh Quang nói “Cha mẹ tôi già rồi…”. Lương An cho biết vào thời điểm bình thơ đó cha Minh Quang mới 47 tuổi còn mẹ Minh Quang 43! Cử tọa cười vang và Minh Quang phải chấp nhận cái cường điệu vô tình của mình.    
    Thuộc về dòng thơ tình yêu có hai bài. Một bài nhan đề “Một thoáng sầu”  của một gã si tình mê một cô hàng cà phê ở Đá nổi, thuộc chiến khu Ba lòng. Anh chàng lượn qua lượn lại hàng ngày mà không dám tỏ tình yêu. Cho đến lúc nàng đi xa không còn dấu  tích và anh chàng sống trong tuyệt vọng. Bài thứ hai của một anh giời tiếng Pháp, mượn đâu được cuốn Eugénie Granget của Balzac và ngấu nghiến trong vài ngày. Rồi làm thơ cảm tác “Khóc Ơ-giê-ni”.

         MỘT THOÁNG SẦU

Một ngày, lại một ngày
Ta thơ thẩn trên con đường cũ
Ta dừng lại một giây, một giây
Ngắm nhìn suối tóc đen quyến rũ.

Cho đến khi
       Cả đất trời khắc khoải
Nàng ra đi
        Không hẹn ngày trở lại.

Một người đã đi xa,
Thế gian bỗng nhạt nhòa! (*)


(*) Hau câu cuối mượn ý của nhà thơ Pháp Lamartine.




          KHÓC Ơ-GIÊ-NI

Cuộc đời ơi, mi làm sao còn ý nghĩa
Khi mối tình duy nhất đã tan đi?
Chỉ còn lại toàn những điều mai mỉa,
Sắc đẹp, giàu sang, phú quý, để làm chi?

Cuộc đời ơi, tình yêu là tất cả,
Là linh hồn, là thế giới, là mai sau.
Không có tình yêu, còn gì đâu nữa?
Cả ánh sáng mặt trời cũng tắt ngấm từ lâu!


     Lương An cười sảng khoái khi đọc xong bài “Một thoáng sầu”. Ông nói không hiểu sao ông như sống lại những ngày trẻ trung và cũng tha thẩn trước nhà người thương. Dầu  bài thơ không nói rõ nhưng ông khẳng định ông biết cô gái có suối tóc đen đó. Ông không ngờ gặp được kẻ si tình ở chốn này. Ông hứa sẽ tìm tung tích cô gái rồi báo cho chàng si tình biết. Chớ quá tuyệt vọng!
     Về Eugénie Grandet, Lương An cho bóêt ông cũng có cảm giác như tác giả bài cảm tác. Đúng, tình yêu là tất cả. Mọi thứ trên đời không thay thế được tình yêu. Chỉ có điều…nói như vậy hiện nay khó có người chấp nhận. Đành vậy thôi. Ta chờ xem.

      Buổi bình thơ dừng lại với bài “Đồi sim” của một “triết gia” có nhiều suy tưởng về cuộc đời.

         ĐỒI SIM

Tôi lang thang gĩưa đồi sim lặng lẽ,
Cảnh chiều hôm thoáng qua làn gió nhẹ.
Tôi bỗng dưng cảm thấy bàng hoàng:
Mỗi mình tôi tồn tại giữa nhân gian!

Chỉ mình tôi, tôi cười và tôi hát
Những bài ca tôi thích tự thuở nào.
Ôi, “Con thuyền xa bến” và “Biệt ly” dào dạt,
Tôi ngâm bài “Tiếng thu” trong cây lá xạc xào.

Tôi hét to vào khoảng trống bao la,
Tôi muốn có yêu thương, thân ái, hài hoà.
Không súng nổ, không bom rơi, không khói lửa,
Cho cây đời xanh lá khắp gần xa!


      Lương An đọc xong, trầm ngâm một lúc rồi bảo ông nhớ tới chuyện “Trái tim Đan-Kô” của Maxime Gorki. Tác giả tưởng mình cá nhân cô đơn, thoát mọi ràng buộc cuộc đời nhưng thực tế tác giả hết to những điều mong nuốn nhân danh con người, con người trong tiếng Nga là tchilavek! Thế đó, người nông cạn nghĩ rằng tác giả tự do cá nhân nhưng suy cho kỹ tác giả có quả tim của Đan-Kô, sẵn sàng chiếu sáng cho đoàn người vượt qua đêm tối trên đường tìm tự do, công lý. Lương An hy vọng thầy Lư có dạy bài “Trái tim Đan-Kô” cho học sinh, có tác dụng tạo ước mơ cho tuổi trẻ, tạo tính nhân văn cho lớp trẻ.
      Để kết thúc buổi bình thơ, đúng vào lúc đêm khuya trời tối như mục, nhà thơ Lương An cho rằng những bài thơ “chìm” là sản phẩm cần thiết cho cái nổi, Cái chìm làm chỗ dựa vững chắc cho cái nổi. Một ngày thanh bình nào đó không xa thơ “chìm” sẽ thành thơ nổi, nói lên cái chung của mọi người, không còn là cái riêng tư phải che giấu nữa. Nhìn cho đúng sự vật thì cái chìm cái nổi có giá trị như nhau. Các tác giả trẻ vui mừng vì lời kết luận hào hiệp và nhìn xa trông rộng của nhà thơ. Họ ra về trong một niềm lạc quan khó tả.
      Nhà thơ Lương An khi nói lời chia tay tỏ ý hy vọng sẽ có dịp về trường bình thơ với các tác giả “chìm” hay “nổi” lần nữa. Nhưng rồi năm học kết thúc, mỗi người đi một ngả . Không biết những tác giả thơ “chìm” dạo đó có tiêp tục làm thơ nữa hay không. Chỉ biết họ đều lớn lên, trưởng thành và đảm mhiệm nhiều vị trí đáng kể trong nhiều ngành hoạt động của đất nước. Hình như họ cũng không có cơ hội trao đổi với nhau về thơ ca hay sáng tác văn chương.
    Không biết giờ đây, học sinh Lê Thế Hiếu có làm thơ về những chuyện riêng tư như lớp đàn anh ngày trước hay không. Và nếu họ làm, họ có gửi gắm cho các thấy dạy văn tâm sự của họ không? Và liệu các thầy dạy văn có nhờ các nhà thơ tên tuổi trong tỉnh đến bình thơ của đám vị thành niên như trước không? Hiện nay, cuộc sống thanh bình cho phép người ta nghĩ đến những gì sâu kín trong tâm hồn. Nếu lịch sử lặp lại, mà điều đó có vẻ chắc chắn, thì thật là điều hay, bởi lẽ cuộc đời rất đa dạng và tiếp cận cuộc đời trong sự đa dạng của nó là điều cần thiết.