Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

ĐẶC TẢ ĐÊM TÂN HÔN CỦA VUA QUANG TRUNG

tailieu hannom
Thứ năm ngày 6 tháng 1 năm 2011 9:01 PM

Vua Quang Trung và Công chúa Ngọc Hân. Tranh: Cuộc sống Việt
 
TƯ LIỆU ĐẶC BIỆT: ĐẶC TẢ ĐÊM TÂN HÔN
CỦA VUA QUANG TRUNG VÀ NGỌC HÂN

Lời dẫn của Lâm Khang chủ nhân:
Thưa chư vị, tôi cũng đã từng nhiều năm ngụp lặn trong kho sách Hán Nôm, cũng bận tâm tra cứu các thư tịch cổ về các chuyện nguyệt hoa hoa nguyệt đã nhiều phen, song chưa bao giờ có được may mắn như Tam Uyên Trần Quang Đức ở Nhã Nam. Trưa hôm qua, được Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương phô rằng có cái này hay lắm, bèn đứng lại ở sảnh Hàn Lâm viện để truy vấn. Chuyết Chuyết kể câu chuyện – mà chư vị sẽ xem dưới đây. Tôi choáng quá!
Lúc ấy, trước mặt không có thư tịch, nên Chuyết Chuyết phải dùng cả đôi tay và cả toàn thân để mô tả những điều mà chàng định tả. Tôi càng choáng hơn!
Sáng nay, tại Thư khố Hán Nôm viện, bọn tôi gồm: Tam Uyển Trần Quang Đức, Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương, U Cốc khách Tô Lan cùng nhau mở 3 văn bản chữ Nho để đối chiếu và xác minh xem Tam Uyển có vì vui chuyện mà tự thêu thùa thêm chữ nào không. Quả thực là đúng như bài của Tam Uyển, không hề có sai nhầm gì. Kíp khi ấy, Kim Anh nữ sĩ cũng có mặt, bèn được bọn tôi mời vào làm chứng!

Đêm tân hôn của Hoàng đế Quang Trung 33 tuổi, còn Ngọc Hân công chúa vừa 16 tuổi. Trời đất! Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên!

Vậy đã đủ chứng, mời chư vị thưởng thức áng văn chương “vô tiền khoáng hậu” này. Xin đa tạ Tam Uyển Trần Quang Đức đã ưng cho Nguyễn Xuân Diện-blog đưa về hầu chư vị bốn phương. Xin đa tạ Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương đã có bài dịch ra thơ ngay trong trưa nay để kíp hầu chư vị.

Dưới đây là nguyên văn chép từ Trần Quang Đức-Blog:
Việt Nam đệ nhất dâm thi Tây Sơn hành
 
Tam Uyển Trần Quang Đức
Bữa trước trong lúc dư nhàn, mỗ có tìm đọc cuốn Tản Ông di cảo (散翁遺稿mang ký hiệu A.2157) của danh sĩ thời Lê là Trần Danh Án. Đọc đến bài Tây Sơn hành thì quả thật hãi hùng chi thậm. Ông này là tôi trung của nhà Lê, kiên quyết bất hợp tác với triều Tây Sơn, thủy chung coi Tây Sơn là giặc mọi, thậm chí tỏ thái độ thù hằn và phất uất khi vua Lê gả công chúa Ngọc Hân cho Quang Trung Nguyễn Huệ. Nay đọc Tây Sơn hành mới càng thấy rõ điều đó. Có điều, từ ý tứ đến ngôn từ trong bài thơ này đều hết sức dâm bôn xằng bậy, càng ngẫm càng thẹn cho kẻ mũ cao áo dài. Xét tự cổ chí kim, văn chương nước nhà chưa có áng dâm thi nào đặng so sánh được. Nay xin tạm phiên âm dịch nghĩa ra đây, rồi sau xin các bậc thiện Nôm chi quân tử cùng diễn ra thơ quốc âm vậy. (Bài thơ này còn được chép trong cuốn Thù thế danh thư 酬世名書 ký hiệu VHv.2239 và cuốn Danh nhân văn tập 名人文集 ký hiệu VHv.2432)
 

Phiên âm
TÂY SƠN HÀNH
 
Thời, Nguyễn Chỉnh dẫn Tây Sơn Nguyễn Huệ binh lai Kinh thành, Cảnh Hưng hoàng đế dĩ Ngọc Hân công chúa hạ giá Nguyễn Huệ, cố hữu thử tác.
Hải vũ thừa bình nhị bách niên, Thâm cung xuân sắc tỏa thuyền quyên
Yên hồng cẩm nhục nhân nhãn độc, Thiển thúy hoa nhân điệp mộng triền
Bất thị thần tiên vô đối ngẫu, Khả kham phương cảnh hốt lưu liên
Sa song tịch mịch mai hàm tuyết, Thúy ngự ly phi liễu khốn yên
Hoa sự lan san xuân dĩ hĩ, Tàn anh lạc nhứ tổng kham liên
Đông đông hà xứ thành biên cổ, Yết trần mạn tắc Trường An lộ
Cức hạ phương toàn chấn diệp phong, Thâm xuân hốt điểm thôi hoa vũ
Tu my vô đảm khống nguy thành, Thoa phiến tương thân để kiêu lỗ
Thiên vương tỉ phụ thượng công phi, Bất tỉ tầm thường hoa lộng chủ
Tôn vinh quý sủng đối thiên hoàng, Điện sính liêm nghi ưu đặc số
Vân thủy sô tùng thúy ỷ la, Phong lưu tấn tướng phân thân trụ
Phiến phu kiệu tử tận phi thường, Đô nhân kiến giả hô vi phụ
Nhân tiện tân lang như nhất khẩu, Thiếp kiến tân lãng trụy song thủ
Y thường mạn lạn ngữ thù ly, Cốt tướng lăng tằng bì trứu cổ
Đính thượng cao đôi Trương Giác cân, Thoái gian bất trước Hàn Tín khố
Kỳ trung nhất vật vọng nguy nhiên, Trực dữ tứ chi trì vi ngũ
Tĩnh tự cao tăng ngột tọa vong, Động như biền tử ca thân vũ
Bất ngôn bất tiếu bất ôn tồn, Đại hống nhất thanh liệt như hổ
Thiên quân phi tồn cứ tô hung, Nộ liệt la quần phi tuyết cổ
Thử vật thùy tri giải thích nhân, Hiệt hàng sáp nhập ôn nhu hộ
Kiều hoa chi thượng cuồng oanh nhu, Cuồng oanh bất vi kiều hoa hộ
Hoa mạc trùng trùng liệt tăng thanh, Diên lô phiến phiến phi yên lữ
Nha giảo nhục chiên hãn như du, Loạn đảo hồ trừu tố bất trụ
Tu du quần đới lạc tân hồng, Ám điểm xuân trù phiên kỉ độ
Thiếp thân lưỡng khổng tự liên hoàn, Thuấn tức thông thành nhất đại khuyên
Quyển nhu điểm duyệt hốt kinh ngạc, Hàng ma bất trị bán văn tiền
Hắc ám ký phi tiền độ bạch, Oanh vu hựu cải cựu thời viên
Hô hoàn nã úng niệu nhất niệu, Niệu thủy chi thanh như phi tuyền
Phi tuyền liễm diễm khứ bất phản, Dương phong đả lạc đào hoa phiến
Đào hoa kiều khiếp bất thắng phong, Phong liễm hoa hồn do giác quyện
Doanh doanh liễu cốt sấu tam phân, Triệp triệp tương la khoan nhất bán
Để sự tuy nhiên bất sát nhân, Mộ vũ triều vân an thục lạn
Tự tòng kì khổ đắc kì hoan, Hoan hậu khước vong cựu khổ gian
Bất hoạn ngư ông huy điệu sáp, Dung dung đào lãng trướng bình than
Tả cúc hữu mô thám hoa tủy, Oanh bất đình thoa điệp bất lan
Ngọc dạng hương tao thất hại tu, Thượng lâu hạ nữu viên đoàn đoàn
Phong tình đãng dạng hoa tâm cấp, Khủng phóng đông quân khoảnh khắc gian
Man nhân lão thực đa cao hứng, Bất hội khinh thiểu chỉ hội toàn
Phù thế thanh vân như quá khách, Nhất sinh kỉ độ thác xuân miên
Khâm trù lạc xứ vô di hạ, Si tuẫn không danh ngộ ngọc nhan
Bất kiến cẩm cơ chi phấn đội, Tây binh khứ hậu kỷ nhân hoàn
Thùy tương thử vị ngữ tỉ muội, Giá lang cập tảo giá Tây Sơn.
 
Dịch nghĩa:
TÂY SƠN HÀNH
 
Bấy giờ, Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn Nguyễn Huệ tới Kinh thành, Hoàng đế Cảnh Hưng gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ, cho nên có bài thơ này.
Bờ cõi thanh bình đã hai trăm năm
Ở nơi thâm cung xuân sắc, người đẹp bị khóa chặt
Cô đơn nằm trên nệm gấm hồng tươi
Say giấc mộng bướm dưới lớp áo hoa biêng biếc
Không phải là thần tiên không có người sánh đôi
Mà cám cảnh thơ ngây bỗng vương lòng lưu luyến
Song the hiu quạnh, bông mai đượm tuyết
Vườn uyển sâu thẳm, liễu ám khói sương
Mùa hoa đi qua, xuân cũng đã hết
Cánh hoa tàn, tơ mành buông, thật là đáng thương
Tùng Tùng! Đâu đó vang lên tiếng trống ven thành
Lũ rợ Kiệt đến, bụi mù khắp Tràng An
Chưa cuối hè mà đã có gió lay lá
Đương xuân chín mà bỗng lác đác giọt mưa bứt hoa.
Đấng mày râu không có gan giữ được cung thành
Để bực quần thoa phải gán thân cho giặc mạnh
Con gái Thiên vương phải làm phi cho Thượng Công
Nào phải bậc chúa hoa tầm thường.
Để tỏ lòng tôn vinh đối với hoàng tộc
Sính lễ cùng nghi thức hết sức đặc biệt
Ngựa xe như mây nước, tùy tòng mặc toàn gấm vóc
Đám phù rể phong lưu, áo mũ xênh xang.
Bọn phu quạt, phu khiêng kiệu đều lạ lùng
Người kinh đô thấy đều gọi là ‘cha’
Ai cũng hâm mộ chú rể
Còn cô dâu trông thấy chàng rể thì buông đôi tay.
Quần áo thì sặc sỡ diêm dúa, giọng nói thì trọ trẹ
Dáng dấp ngang tàng, da dẻ nhăn nhúm
Trên đầu chất cao cái khăn của Trương Giác
Giữa chân không mặc cái quần của Hàn Tín
Ở bên trong, một vật trông rất nguy nga
Cùng với tứ chi, sừng sững thành năm ngọn
Lúc tĩnh lặng, giống như cao tăng nhập tọa
Lúc động đậy, tựa như võ biền vừa hát vừa múa
Chẳng nói chẳng cười chẳng từ tốn
Gầm lớn một tiếng, mãnh liệt như hổ
Nghìn cân sà xuống, chồm hỗm chiếm bộ ngực như bơ
Tức tối xé rách chiếc váy là đang che cặp đùi tựa tuyết
Vật này ai cũng biết là có thể đâm người
Ngúc ngoắc rồi chọc vào cánh cửa êm ấm
Bông hoa kiều diễm trên cành bị oanh khùng giày vò
Con oanh khùng không hề giữ gìn bông hoa kiều diễm
Lớp lớp màng hoa, tiếng xé vải
Mảnh mảnh lò chì bốc lên những ngọn khói
Răng nghiến, xác thịt rung, mồ hôi như dầu
Nện bừa, rút quấy, làm không dừng
Phút chốc, giọt hồng trinh rớt trên dải váy
Âm thầm mấy độ xuân qua
Trên thân thiếp hai lỗ tựa vòng khâu
Trong nháy mắt thông thống thành một hốc lớn
Vén áo lót kiểm tra bỗng kinh ngạc
Bị sờ bóp không đáng giá nửa xu
Thâm tím, không còn màu trắng xưa kia
Méo mó, khác rồi khối tròn thưở trước
Gọi a hoàn bưng chậu nước đi tiểu một cái
Tiếng nước tiểu như dòng thác tuôn
Dòng thác sóng sánh một đi không trở lại
Ngọn gió thổi rụng cánh hoa đào
Hoa đào kiều diễm, khiếp sợ, không chịu nổi gió
Gió ngớt, hồn hoa còn thấy mệt lả
Vóc liễu gày đi ba phần
Áo lụa gấp rộng một nửa
Việc này tuy không đến nỗi chết người
Nhưng cứ sớm mây chiều mưa sao lại không nát bét chứ
Từ khi chịu cái khổ lạ lùng lại được cái sướng lạ lùng
Sau khi sướng lại quên hết nỗi gian khổ ngày xưa
Chẳng lo ông chài khua chèo bị rít
Sóng đào bát ngát dâng ngập bờ cát phẳng
Vốc bên trái, sờ bên phải, thăm dò nhị hoa
Con oanh chẳng ngừng luồn, con bướm chẳng ngăn cản
Ngọc ngứa, hương gãi, không còn thẹn thùng
Trên ôm, dưới siết, cuộn lại tròn vo
Cuộc phong tình tràn ngập, lòng hoa bướm háo hức
Chỉ sợ rời ‘chúa hoa’ trong khoảnh khắc.
Kẻ man di thật thà, rất nhiều khi lên cơn hứng
Chỉ biết đâm dùi, chứ không biết nhẹ nhàng ve vuốt
Cảnh đời mây nổi, tựa như khách qua đường
Cả đời được mấy lúc hưởng trọn giấc xuân
Thú chăn gối không phân biệt người Kinh, người rợ
Si ngây chuốc lấy danh hão, người ngọc lỡ lầm
Không thấy đám phấn son ở Cẩm Cơ sao
Sau khi quân Tây Sơn đi, có mấy thằng quay lại?
Ai nấy hãy đem việc này nói rõ với chị em:
Lấy chồng thì cứ sớm lấy bọn Tây Sơn ấy.
 
Nguồn: Trần Quang Đức-Blog

Dưới đây là bản dịch thơ của Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương:
Cõi thanh bình hai trăm năm lẻ
Chốn thâm cung khóa trẻ đương tơ
Gấm tươi phô nét hững hờ
Áo hoa biêng biếc, bơ thờ[1] giấc xuân
Khách thần tiên chưa lần sánh mộng
Lòng thơ ngây chợt động tơ vương
Song mai tuyết đọng chán chường
Vườn hoa thăm thẳm khói sương liễu bồ
Hoa đã rụng xuân hồ cũng hết
Xác còn buông mấy nét tơ sương
Thoắt thôi trống động biên cương
Bao nhiêu rợ mọi ngập đường Tràng An
Buổi cuối mùa gió man lay lá
Đương xuân hồng mưa rã nhị hoa
Mày râu trốn hết đâu mà?
Để cho má phấn phải ra gán mình
Thân công chúa thình lình thiếp giặc
Thân ấy đâu phải bậc tầm thường
Hoàng cung quốc sắc thiên hương
Thì thôi sắm lễ tiện đường rước đi
Xe như nước ngựa phi giăng gấm
Phù rể trông cũng thậm xênh xang
Lạ lùng tôi tớ khiêng sang
Lê dân Kẻ Chợ bàng hoàng xuýt xoa
Hâm mộ ngắm chàng ta rể quý
Nàng Ngọc Hân gạt lệ xuôi tay
Người đâu trọ trẹ thế này
Da thời nhăn nhúm, dáng rày[2] ngông nghênh
Khăn với áo xông xênh diêm dúa
Giữa hai chân không khố lão Hàn
Bên trong một vật hiên ngang
Ngũ chi sừng sững như đang thượng tòa
Khi lúc lắc tựa là nhảy múa
Chẳng nói năng sấn sổ xông ra
Cọp gầm hùng hổ chu choa
Nghìn cân sà xuống một tòa thiên nhiên
Xé toạc váy giở miền ngà ngọc
Vật này ôi đã xọc thân hoa
Xăm xoi ngúc ngoắc vào ra
Oanh khùng khục tiếng, hoa dà dà son
Ôi giày xéo hoa don vật vã
Nhụy non tơ rách tã còn đâu
Hơi hùm bốc khói trên đầu
Thịt rung răng nghiến như dầu bôi thân
Chọc bừa đâm quấy tần vần
Giọt hồng cứ giỏ mấy lần nếp voan
Âm thầm bấy, mầu xoan vuột mất
Nhụy thuở nào e ấp xinh xinh
Thoắt thôi hoang hoác thân[3] mình
Nhìn xem xiêm áo thất kinh rụng rời
Thân vàng ngọc đáng thời nửa cắc
Màu trinh nguyên đã mất vẻ xưa
Ngực non méo mó dật dờ
Buồn cơn đổ xuống một bờ thác tuôn
Thác đã tuôn cũng khôn níu lại
Cánh hoa đào gió tãi nào vun
E rằng gió giật chăng dừng
Hồn hoa mệt bã vô chừng bấy hoa
Thân liễu yếu ngót ba phần đủ
Xiêm y thay, thít chửa vừa thân
Mây mưa đã giãi phong trần
Tuy chăng mất mạng, cũng dần nát tan
Càng đau lạ lại càng sướng lạ
Sướng này thôi cũng hả đau kia
Chèo khua chẳng ngại gẫy chìa
Sóng đào bát ngát dâng kìa bãi xa
Đôi trái cấm xuýt xoa kia nọ
Oanh chăng ngừng, bướm tỏ nguồn yêu
Ngọc ngà ngứa ngáy hương phiêu
Trên ôm dưới siết còn đâu thẹn thùng
Cuộc phong tình bướm hoa háo hức
Chẳng nỡ rời một lúc một giây
Vũ phu hứng động dâng đầy
Vuốt ve chẳng đoái, cuốc cầy quen chân
Cảnh mây nổi một thân làm khách
Khách qua đường chớ trách mộng xuân
Gối chăn đâu cũng xoay vần
Danh suông để hão, trong ngần vấy nhơ
Đám phấn son Cẩm Cơ chửa đủ
Gã Tây Sơn liệu có quay về
Việc này nói tỏ cho nghe :
Lấy chồng cứ lấy chẳng nề quân Tây !

--------------------------------------------------------------------------------
[1] Bơ thờ (từ cổ): uể oải, lười.
[2] Rày: nay
[3] Theo nguyên bản nên dịch là “cửa”, nhưng nay đổi chữ cho nó đỡ dữ.
*

Phụ chép: Tiểu sử của Trần Danh Án – tác giả của bài Tây Sơn hành:

Trần Danh Án (1755 – 1794), người xã Bảo Triện huyện Gia Định – nay là thôn Bảo Triện, xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Cháu Trần Phụ Dực, con Trần Danh Lâm.
Thi Hương đỗ Giải nguyên. Thi Hội đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787) đời Lê Mẫn Đế.
Làm quan đời Lê Chiêu Thống đến chức Viên ngoại lang, hành Chiếu khám. Khi Lê Chiêu Thống chạy lên vùng Bắc Giang, ông đang giữ chức Nội hàn, đi theo làm tùy tùng. Chiêu Thống chạy sang nhà Thanh, ông ở lại quê nhàm cùng Trần Quang Chân, Dương Đình Tuấn dấy binh chống triều Tây Sơn. Khi nghe tin Chiêu Thống chết ở Trung Quốc, ông gào khóc thương tiếc rồi mất.
 
Nguồn: Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919. Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn học, Hà Nội, 2006. trang 645.
Cop từ nguyenxuandien blog