Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

THƯ NGỎ GỬI ÔNG VŨ TRỌNG KHANH

Nghiêm Xuân Sơn
Chủ nhật ngày 13 tháng 9 năm 2009 11:02 AM
TNc: Tôi nhận được Thư ngỏ này của ông Nghiêm Xuân Sơn, con rể nhà văn Vũ Trọng Phụng. Ông Sơn còn cẩn thận gửi thư (hình bên) cho tôi nhờ giúp đỡ. Trannhuong.com xin cho Thư ngỏ lên để ông Vũ Trọng Khanh (nhận là con trai Vũ Trọng Phụng) và bạn đọc rõ. Nhiều năm tôi biết ông Sơn đã bỏ nhiều công sức để lưu giữ, tôn tạo những công trình, hiện vật về nhạc phụ của mình. Liệu ông Vũ Trọng Khanh có phải con trai Vũ Trọng Phụng không ?
 
Để trả lời bài báo nói về Tiểu sử và thân  thế gia đình nhà văn Vũ Trọng Phụng của ông Vũ Trọng Khanh
 
Tôi tên là Nghiêm Xuân Sơn sinh năm 1936 (Bính Tý) là chồng của Vũ Mỵ Hằng - con gái độc nhất của nhà văn Vũ Trọng Phụng và là người đang quản lý, trông nom nhà thờ, phần mộ của nhà văn và gia đình ông gồm mẹ đẻ, vợ và con gái ông tại địa chỉ nhà số 5, tổ 2, Cụm Giáp Nhất, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Điện thoại: 0438583147 - xin có lời nói với ông như sau:
Tôi có được đọc bài báo Tiểu sử và thân thế gia đình nhà văn Vũ Trọng Phụng do ông viết đăng trên nét trong Bloogle đề ngày 25/6/2009. Tôi thật sự bất bình, không bằng lòng về bài viết đó. Vì nó đã viết sai sự thật 100%, bịa đặt và vô nghĩa lý một cách tệ hại.
Bài báo đó do ông viết đã xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhà văn và gia đình ông. Ông đã đưa những thông tin không chính xác, xâm phạm vào quyền bí mật đời tư của gia đình nhà văn mà Nhà nước và Pháp luật bảo vệ. Theo tôi, nếu ông có đầy đủ bằng chững, có chứng cứ hợp pháp mà ông là con trai đích thực của nhà văn thì ông có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền xác định cho mình là con. Tôi không hiểu ông đưa những thông tin lên báo để nhằm mục đích gì? Ông cứ nói ra luôn đi như cái thời những năm 1960 - 1970 ở Sài Gòn, nhà văn Vũ Bằng - bạn thân của Vũ Trọng Phụng đã gặp ông người con trai của Phụng bây giờ đi cốc mà nhà văn phải mất công vạch trần đăng trên tạp chí Văn học, số 114 ra ngày 15/10/1970 ở Sài Gòn.
Dưới đây, tôi xin đi vào một số việc mà ông bịa đặt nói trên báo như sau:
1. Ông nói Bố tôi tên thật là Vũ Văn Tý, còn tên Vũ Trọng Phụng chỉ là bút danh mà bút danh này do ông Phụng quá yêu mẹ ông tên là Phụng mà đặt ra. Ông cho biết gia đình ông đang giữ những 02 giấy khai sinh nhưng 02 giấy khai sinh đó lại khác nhau năm sinh và nơi sinh (Ông nói: 01 cái có ghi ngày sinh là 20/10/1910 nơi sinh là làng Hảo, 01 cái có ghi ngày sinh là 20/10/1912 nơi sinh  là Hanoi)
Ông còn cho biết ông Phụng phải sinh ra ngày 20/10/1910 mới đúng và cho báo chí hồi đó nói sai, rồi ông đưa ra nhân chứng ông Trưởng Tạo, ông Triệu Luật, ông Vũ Nhân Phong… Tôi nói đây là nhân chứng ông nguỵ tạo mà tôi sẽ giải thích sau.
Tôi xin nói để ông biết:
Về giấy khai sinh và ngày sinh của Vũ Trọng Phụng:
Hiện nay, gia đình  tôi có lưu giữ 01 cái giấy Thay cái sổ sinh ra (thay giấy khai sinh in bằng ba thứ chữ (Tiếng Pháp, Tiếng Hoa, Tiếng Việt). Giấy này tôi đã cho in trong Tuyển tập Vũ Trọng Phụng do nhà xuất bản Văn học Hà Nội phát hành năm 2006 để mọi người cùng biết. Giấy khai sinh này trong đó ghi rõ: Tên khai sinh là Vũ Trọng Phụng. Nơi sinh là: Số nhà 23, phố Hàng Vôi, Hanoi. Ngày sinh là ngày 20 tháng 10 năm 1913, có đầy đủ chữ ký của ông Phụng, của người đứng khai: Vũ Văn Ba, chữ ký của các người làm chứng, của Lý tưởng và trưởng khu là ông Nhã ký, đóng dấu ngày 12 tháng 5 năm 1920. Tờ khai sinh này là bản sao nên có đóng dáu sao y bản chính của Toà thị chính ngày 9/8/1927…
Ông Khanh cho biết gia đình ông đang có 02 bản khai sinh khác nhau như trên đã nói thì xin ông trưng nó ra cho mọi người được biết. Còn riêng tôi, người đang trông coi nhà thờ, nhà lưu niệm của nhà văn sẵn sàng xin mua ại với giá cao 02 giấy khai sinh dó, kể cả các kỷ vật nào đó của nhà văn. Tôi sẽ cử người hoặc tôi đến tận nơi cần mua bán các kỷ vật đó nếu cho biết địa chỉ rõ ràng…
Còn bây giờ, tôi xin nói với ông về việc ông có 02 giấy khai sinh đó là ông bịa, đặt chuyện, nói không thành có. Vì tôi ở rể, sống trông nom hơn 10 năm trời với bà cụ cho đến khi cô qua đời (1954 - 1963). Mẹ đẻ của nhà văn Vũ Trọng Phụng, lúc cụ còn minh mẫn, vợ chồng chúng tôi có hỏi nhiều lần về việc này thì cụ cho biết: Sở dĩ ở nhà mọi người thường gọi tên ông Phụng là Tý là vì ông ấy sinh năm Tý (Nhâm Tý - 1912). Lúc đẻ ông, có nhiều lý do chưa làm giấy khai sinh cho ông, nhưng lúc cần phải có nó để ông được đi học nên mới nhờ mọi người làm giúp tờ khai sinh đó và khai khác đi (1913 - Quý Sửu) cho phù hợp với tuổi được đi học. Cụ còn cho biết thêm, ở quê chồng (bố đẻ ông Vũ Trọng Phụng - là ông Hảo) không còn gì kể cả người thân ruột thịt cũng không còn ai thân thích. (Bố đẻ ông mất khi nhà văn mới 7 tháng tuổi).
Như vậy đã rõ, không như ông Khanh nói: cụ ông sinh ông ở làng Hảo là không đúng, là không có. Còn để chứng minh thêm lời ông nói là đúng thì xin ông đưa ra cái giấy khai sinh của bản thân ông (Vũ Trọng Khanh) cho mọi người biết xem trong đó sẽ rõ nơi sinh ra ông, bố đẻ ông là ai thì chúng  ta mới luận bàn rõ được.
2. Việc ông nói ông Vũ Trọng Phụng vì quá yêu mẹ của ông nên ông Tý tự đổi tên thật từ Tý sang là Phụng là không đúng. Tên Vũ Trọng Phụng là tên ghi rõ trong giấy khai sinh của ông và do mẹ ông đặt tên cho. Ông Phụng còn lấy bút danh là Thiên hư khi làm báo. Còn chyện ông kể về việc mẹ ông bỏ nhà, bỏ bố mẹ ở tận Tuyên Quang, vì yêu ông Phụng, về ở hẳn Hà Nội sống với ông Phụng năm ông ấy mới 16 tuổi (1928) không cưới xin gì hết thì theo ông năm ấy mẹ ông bao nhiêu tuổi. Và sao nhà ở Tuyên Quang lại nói sống ở Hanoi, ở với ai? Năm 1928, ông Phụng mới 16 tuổi, ông Phụng chỉ là ông Phụng nhà nghèo, không có việc làm và chưa phải là nhà văn Vũ Trọng Phụng? Thật là vô lý hết sức. Sao ông nói mẹ ông sống với mẹ ông sống với mẹ con ông Phụng ở HaNoi lại phải về quê làng Hảo để đẻ ông !!! Tôi nói để ông biết, khi bà mẹ ông Phụng còn sống với gia đình tôi mười mấy năm trời không thấy cụ nói gì về mẹ con ông, nhất là cụ có cháu đích tôn, có người nối dõi tông đường như ông sao cụ lại bỏ qua? Như vậy, những năm tháng còn bé đến tuổi trưởng thành ông sống ở đâu, ai nuôi ông? Tại sao suốt cả những năm  tháng đó, từ lúc ông Vũ Trọng Phụng qua đời năm 1939 cho đến năm 1954 coi như là năm đó ông di cư vào Sài Gòn thì không một lần nào ông xuất hiện với gia đình nhà văn. Đặc biệt, bà cụ không hề biết có ông, có đứa cháu đích tôn. Bây giờ nói như vậy, ông phải có chứng cứ chứng minh cho mọi người biết ông là ai. Còn bịa đặt, dựng chuyện như ông thì lấy gì để tin.
3. Ông còn đặt chuyện nói năm 1937 vì thương ông, bà nội thương cháu đích tôn nên yêu cầu ông Phụng phải lấy vợ khác (!). Ông Phụng lấy bà Vũ Mỵ Lương vì sót thương hoàn cảnh gia đình bà (sợ bị  tội nên phải đổi họ Đặng sang họ Vũ) nên mới lấy bà để có người trông nom ông. Còn bà Mỵ Lương, theo ông cho biết bà ấy xấu người, răng đen, nhà quê, lại có tật bẩm sinh 2 chân khập khiễng…
Thật tội nghiệp cho ông, ông bịa chuyện quá đáng. Tôi yêu cầu ông nên đọc bài báo có đăng trên Blog Con rể nhà văn Vũ Trọng Phụng kính xin ba chữ của nhà văn Hoàng Tường viết trong đó có đưa ảnh bà Vũ Mỵ Lương (1939). Chắc ông nghĩ, mọi người biết rõ chuyện về nhà văn Vũ Trọng Phụng đều đã chết cả nên ông bịa chuyện, nói cho ông, đến lúc này, ngay ở làng Giáp Nhất hiện nay, các cháu ruột thịt của bà Vũ Mỵ Lương còn sống và nhới rất rõ lúc ông Vũ Trọng Phụng qua đời. Đặc biệt có cụ Nguyễn Bá Đạm năm nay 90 tuổi là nhà sưu tầm tiền cổ nổi tiếng của Việt Nam và là người rất mê văn chương Vũ Trọng Phụng. Cụ là người tặng các kỷ vật vô giá như một số thẻ nhà báo, giấy khai sinh của nhà văn cho vợ chồng tôi. Cụ cũng đã có bài báo viết về đám cưới của nhà văn Vũ Trọng Phụng với bà Vũ Mỵ Lương mà cụ được chứng kiến. Như vậy, ông Vũ Trọng Phụng đã yêu người con gái làng Mọc Giáp Nhất này mấy năm liền và các từ Biết rồi, khổ lắm, nói mãi vì sao xuất hiện, xin ông Khanh nghĩ lại và đọc kỹ bài báo của ông Đồ Nam với nhan đề Năm cái bí mật của Vũ Trọng Phụng đăng trong tập san Văn học số 114 ở Sài Gòn ngày 15/10/1970, ông sẽ thấy xấu hổ vì tội nói xấu, tội bịa chuyện. (Trong trường hợp Internet cho đăng bài này, tôi xin phục vụ ngay).
Ông nói bố ông vì mắc bệnh lao phổi ốm chết vào lúc 2 giờ sáng ngày 13 mà vì mắc bệnh lao bắt buộc phải chôn cất ngay trong ngày nên 10 giờ trưa cùng ngày bà nội và kế mẫu ông phải vội vã đem xác bố đi chôn tại nghĩa trang Quảng Thiện thuộc huyện Ngã Tư Sở, tỉnh Hà Đông. Thật tệ hại và ghê tởm thay cái tội dựng chuyện nói xấu ngay cả cái chết của nhà văn Vũ Trọng Phụng ông cũng không tha. Ông đã nói sai sự thật 100% cụ thể là: Ông Vũ Trọng Phụng chết ngày 13 và là ngày thứ sáu nhưng đến ngày 15 là ngày chủ nhật mới đưa tang, có đông đủ họ hàng và các nhà văn, bạn đọc yêu văn chương ông cũng có những 2 người đọc điếu văn bên mộ ông: Lưu Trọng Lư và Nguyễn Vỹ. Xin ông đọc ngay tạp chí Tao đàn số đặc biệt thngs 12/1939 nói về Vũ Trọng Phụng thì ông sẽ thấy chân dung và việc nói xấu của  ông. Ông nói ông sống với bố thì khi bố ông chết không thấy một ai dù chỉ một câu nói, một chữ nói về người con trai độc nhất này. Theo sau xe tang không thấy ông đâu, không thấy ông đeo khăn tang mặc áo xô, chống gậy. Đi sau xe tang chỉ thấy nhắc đến người con gái bé nhỏ của ông Vũ Trọng Phụng. Sau khi nhà văn qua đời, ông ở đâu, với ai? Sao ông không ở lại với bà nội ông, kế mẫu ông và với Mỵ Hằng. Đoạn đời này ông bỏ hẳn đi, không kể một cách lạ kì. Tại sao gần 70 năm ngày mất của nhà văn, không thấy ông một lần xuất hiện trước bàn thờ, mộ phần ông Vũ Trọng Phụng để giãi bày phân  tỏ mà bây giờ năm 2009, sắp đến 70 năm ngày mất của nhà văn thì lại thấy ông xuất hiện. (Cũng như những năm 1970, 1973 mọi người bạn đọc yêu văn ông, nhà văn Vũ Trọng Phụng cũng lại thấy ông tự xưng là con trai duy nhất của nhà văn để làm gì - có đi cốc nữa hay không, chúng ta chờ xem nhưng lần này ở mãi bên Mỹ quốc).
4. Trong bài báo này của ông còn nhiều chyện phải nói, tôi chỉ xin tóm tắt như sau:
a) Vì ông xa quê hương lâu ngày lại có dụng ý khác nên một phần quên và một phần cần phải nói khác đi sao cho phù hợp với ý đồ của ông nên rất sơ hở. Tên các làng mạc ở ngoài Bắc ông nói sai hết. Ví dụ như làng Vẽ vẫn còn đấy, còn làng Mọc Chánh kinh vẫn còn đấy, không phải hai làng là một…
b) Bà Vũ Mỵ Lương là người làng Giáp Nhất là một làng trong 5 làng thuộc Tổng Mọc (Giáp nhất, Quan Nhân, Chính Kinh, Hoà Mục, Phùng Khoang). Làng Giáp Nhất không có họ Đặng, không có chuyện họ Đặng sợ chuyện liên quan đến Đặng Trần Nghiệp phải đổi sang họ Vũ (ông Ký con Đoàn Trần Nghiệp cũng bị ông đổi từ họ Đoàn sang họ Đặng) thật tức cười.
Việc ông bôi nhọ và nói không đúng về gia đình bà Vũ Mỵ Lương, tôi sẽ để họ Vũ lên tiếng nói chuyện với ông sau. Còn gia đình bà Vũ Mỵ Lương, ông kể cũng sai hết. Không có ai là bà Giảng, ông Nhân Phong, bà Thị Hào và còn bịa chuyện về tướng Song Hào… Chỗ này tôi nói qua để ông biết: Mẹ vợ tôi là con út của cụ Cửu Tích, người anh cả là Vũ Cự Chân không phải là con gái, mở cửa hàng thuốc cam  ở phố hàng Bạc, ông Hai Kỳ ròi đến ông thứ ba tên là Vũ Kim Bằng có cửa hàng chữa mắt ở gần Ngã Tư Sở. Ông Vũ Thanh Quy và ông Vũ Bội Chinh mở cửa hàng bánh ở Hải Phòng lấy thương hiệu là Nhân Phong và sau năm 1954 di cư vào Sài Gòn mở cửa hàng vừa bán bánh vừa bán thuốc cam hàng Bạc nhưng vẫn để thương hiệu là Nhân Phong ở phố Hai Bà Trưng, gần chợ Tân Định.
c. Vì ông muốn gắn ông vào gia đình ông Vũ Trọng Phụng nên ông rất lúng túng trong việc ông kể về nơi ông sinh, về quan hệ của mẹ con ông với mẹ con ông Phụng. Còn về thời gian, năm tháng và nơi ở, sinh sống nhiều chỗ kể rất sơ xuất, sơ hở nói không đúng lại mâu thuẫn với nhau. Ông nên xem xét lại.
Cuối cùng tôi muốn nói với ông Khanh như thế này:
Ông Vũ Trọng Phụng là nhà văn tả chân, thuộc phái hiện thực phê phán và ong đã qua đời từ lâu, đến nay chết đã gần 70 năm, không nên gắn nhà văn Vũ Trọng Phụng với chính trị rồi nói khác đi, không có lợi ích gì cho nhà văn, để ông yên nghỉ vĩnh hằng. Nhờ có đất nước đổi mới đã nhận chân ra tài năng của ông và ông đã được phong thần. Tôi xin ông và các ông không vì lý do nào đó lại đặt vấn đề lại để làm khổ nhà văn Vũ Trọng Phụng ở dưới suối vàng.
Tôi xin nhà báo Mặc Lâm, phóng viên đài RFA - người đã viết bào báo Vũ Trọng Phụng nhà văn của người nghèo cùng với chúng tôi giúp tôi làm rõ chân dung Vũ Trọng Khanh có phải là con trai duy nhất của nhà văn Vũ Trọng Phụng hay không? Yêu cầu ông Khanh đưa các chứng cứ ra công khai và nhờ pháp luật chứng minh đen trắng rõ ràng. Trong trường hợp ông Vũ Trọng Khanh không thấy việc làm sai trái của mình, buộc lòng chúng tôi thấy cần sẽ nhờ công lý và pháp luật hai nước giải quyết sao cho thật thấu tình đạt lý.
Còn riêng tôi là người con rể duy nhất, là người chồng duy nhất của người con gái độc nhất của nhà văn, người đang trông nom nhà thờ và mộ phần của ông có lời mời ông Vũ Trọng Khanh và những người có liên quan bớt chút thời gian trở về quê hương để nhận họ cho rõ ràng. Trường hợp không về Việt Nam được vì lý do nào đó cũng báo cho chúng tôi được biết để chúng tôi sang Mỹ hầu chuyện (trước mắt cho chúng tôi biết địa chỉ cụ thể rõ ràng, cả số điện thoại nữa). Ở bên Mỹ chúng tôi cũng có đủ anh em ruột họ Nghiêm Xuân của tôi, có đủ người ruột thịt họ Vũ của bà Vũ Mỵ Lương đến hầu chuyện cùng ông, nếu ông thấy cần.
Xin kính chào và chúc ông mọi sự may mắn và sức khoẻ tốt.
 
Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2009
Ký tên

Nghiêm Xuân Sơn



Cái tài, cái tật của Vũ Trọng Phụng

(Bài báo của nhà văn Vũ Bằng đăng trên tạp chí Văn học số 114  tháng 10 năm 1970 tại Sài Gòn)
 
Cách đây chừng tám năm, lúc tôi còn làm nhật báo Dân Chúng, có một hôm có người bạn đến bảo tôi:
- Bọn nhà văn các anh tệ quá. ăn ở với nhau cạn tình ráo máng không chỗ nói. Nhất là anh có tiếng là bạn Vũ Trọng Phụng từ hồi còn nhỏ, đến lúc ra đòi lại cùng cộng tác trên nhiều tờ báo với nhau, thế mà nỡ để cho đứa con trai độc nhất của Vũ Trọng Phụng sống cầu bơ cầu bất trên mảnh đất Saigon, không có một cái phòng để ở nhiều ngày, không có một bát cơn ăn đỡ lòng.
Ông bạn nói rất hăng và sỉ vả tôi gia riết.
Thế là nghĩa làm sao? Tôi không hiểu.
Nhưng phảng phất thấy một cái gì bất thường đây, tôi cố trẫn tĩnh tinh thần và hỏi cặn kẽ ông bạn hơn để cho biết hết bí ẩn và đầu đuôi câu chuyện mà ông bạn đem ra nói.
Đứa con trai của phụng bây giờ đi cốc?
Thì ra câu chuyện như sau:
Ông bạn tôi ghiền á phiện. Trong những ngày ra vào tiệm hút, ông có gặp một thanh niên chừng hai mươi lăm, hai mươi sáu cũng ghiền, mặt mũi phương phi, lúc hút tạm đủ rồi thường nằm bắt chân chữ ngũ ngâm thơ, chửi đời, chửi xã hội. Gạn hỏi thì thanh niên cho biết anh chửi đời, chửi xã hội như thế là do truyền thống của bố anh để lại cho, mà bố anh là ai? Anh ngồi nhỏm dậy, trợn mắt như muốn nhát người ta:
- Thế mà các cậu không biết sao? Các cậu quê một cục. Cả Saigon này, còn ai lại không biết tôi là con trai Vũ Trọng Phụng - một nhà văn xã hội, tả chân nổi tiếng một thời vì chống bất công xã hội, và không ngại đem tất cả những xấu xa, bỉ ổi của bọn quan lại giàu nổi, bọn thực dân, bọn đĩ nên bà, bọn chủ điền tàn ác, bọn bịp bợm sống trên xương máu đồng bào ra phơi trần trên sách báo.
- Vậy sao? Tội nghiệp chưa! Chúng tôi nghe thấy nói, lúc sống Vũ Trọng Phụng đã bị đời bạc đãi, nay cậu là con trai Phụng mà các anh em của ông cụ trong làng văn báo làng báo lại phe lờ nữa sao? Nhất định không thể được. Chúng tôi, những người đọc văn Vũ Trọng Phụng và từng say sưa với những phóng sự như Kỹ nghệ lấy tây, Làm đĩ, Cạm bẫy người, những kịch như Không một tiếng vang, Lữ cách bạo gia và những tiểu thuyết như Giông tố, Dứt tình, Số đỏ, chúng tôi phải làm cho ra chuyện để cho các ông tự nhận là Văn nghệ, văn gừng phải một phe ê chề. Là vì chúng tôi không thể chịu nổi những hạng người gian sảo, đạo đức giả, ngoài mặt thì nói nhân nghĩa, lễ, trí, tín mà bên trong thì đều giả, không đoái hoài đến một đồng nghiệp đã từng đánh một cái dấu son vào Văn học Việt Nam.
Thế là bao nhiêu tức giận, khinh khi của ông bạn trút cả lên đầu kẻ viết bài này, vì lẽ tôi là người thứ nhất ông bạn gặp, sau khi đã đi làm vội một cuộc nghĩa quên hỏa tốc để giúp cho người con trai yêu quý của Vũ Trọng Phụng sống tạm trong những ngày thiếu thốn. Hỏi thêm tình tiết nữa, tôi được biết thêm rằng người thanh niên đáng thương đó đã cốc đồng bào ở miền Nam này như thế từ mấy năm nay rồi, cho nên anh ta vẫn sống đàng hoàng, tuy chẳng phong lưu nhưng cũng tạm đủ cơm đen, cơm trắng. Thôi thế cũng may. Riêng tôi cũng đỡ hối hận với ông bạn, yêu Vũ Trọng Phụng một cách chân thành đến tìm tôi để sỉ vả cá nhân tôi nói riêng và chửi cả lớp văn nhân, ký giả nói chung, nhưng dù sao tôi thấy như thế cũng chưa đủ giải thoát một tâm hồn tội lỗi. Tôi bèn đề nghị:
- Nhờ ông bạn cho biết tôi  tỉnh ngộ như kẻ mù được thấy ánh sáng. Đã làm ơn thì xin làm ơn cho chót, ông bạn giúp tôi, đưa tôi đến tìm con trai Vũ Trọng Phụng để nói đôi ba câu chuyện và giúp đỡ hoặc cách này hay họ cho cháu - có được không.
- Sao lại không? Anh không việc gì phải kiếm. Ngay chiều nay, tại quán nước này tôi sẽ dẫn y đến nói chuyện với anh và ngay từ bây giờ tôi chắc chắn anh sẽ phải khóc khi nghe thấy y kể lể tình cảm của y và nhắc đến ông Vũ Trọng Phụng trối trăng lại cho y như thế nào trên giường chết.
Có phép quỷ thuật
Không. Tôi không khóc, nhưng thú thực ngay khi nghe thấy câu chuyện của ông bạn, tôi giận không để đâu cho hết. Tôi giận tất cả… nhưng tôi cố nhịn cho tới khi gặp tràng thanh niên đáng yêu kia đến cùng với ông bạn tôi lại cái quán nước đã hẹn nhau buổi sáng. Tôi tự nhủ phải bình tĩnh tới mức tối đa. Sau khi bắt tay chào hỏi và mời dùng rượu mạnh và tôi nói tất cả nỗi hối hận của tôi không được biết sớm vụ nầy với thanh niên và trước mặt ông bạn, tôi hỏi thanh niên nọ:
- Để chuộc tất cả lỗi của bác, cháu có thể cho bác biết bác phải làm gì cho cháu? Mà bây giờ má cháu đâu? Có còn ai thân thích ở trong này không?
Chàng thanh niên nói như đọc một cuốn tiểu thuyết hay. Bố anh - Vũ Trọng Phụng - mất đi rồi, nhà túng quá, sống bữa hôm lo bữa mai khổ cực không chỗ nói. Mẹ anh vào đây cũng mất rồi. Bây giờ anh chỉ có một thân một mình thôi. Anh sốt rét ngã nước, không có tiền uống thuốc, phải hút là… vì bịnh nó vật anh. Bây giờ anh không muốn gì to lớn quá đâu, chỉ cần một tí tiền, chừng mười vạn để sang một cái nhà, mở một tiệm sách để nối lại nghiệp nhà, vừa trước tác vừa trông vào cửa hàng sách để sinh nhai, sống một cuộc đời đẹp tự do, không cần phải bợ đỡ… thằng nào cả.
Tôi cảm phục câu nói của thanh niên hết sức. Sau một hồi suy nghĩ đắn đo, tôi nói:
- Đó là một ý kiến rất hay. Con trai Vũ Trọng Phụng nghĩ như thế là xứng đáng, nhưng, thưa ông con trai Vũ Trọng Phụng, tôi xin nói thẳng cho ông biết, trước sự chứng kiến của bạn tới đây, ông là một thằng khốn nạn, một ngàn lần khốn nạn. ở vào một cái xã hội bịp bợm để có ăn, không ai thèm cấm ông đi bíp, đi cốc để có ăn có hút, nhưng ông khốn nạn là vì mặt mũi sáng sủa ông mà nghe giọng ông nói thì cũng ra vẻ người có học hành, ông lại phải dở cái hạ kế ra để đánh lừa người khác; không bịp cách gì được, ông lại tự nhận là con trai Vũ Trọng Phụng để cầu lấy lòng thương của người quen và xin một chút từ tâm của những bạn cũ của Vũ Trọng Phụng hay những người đã đọc và yêu văn Phụng.
Đến lúc ấy, tôi không thể tự kiềm chế nữa: tôi phải nói hết những điều tức giận tiềm tàng ở trong lòng từ buổi sáng ra. Đáng thương thay Vũ Trọng Phụng, suốt cả một đời phục vụ văn nghệ báo chí mà đến lúc chung cục thì nghèo khổ như con chó, bị bịnh lao mà không có tiền thuốc thang, tóm lại cho rất nhiều mà lấy lại chẳng được bao nhiêu, một người như thế mà bị đời bóc lột đến xương tủy như thế, mà đến khi nhắm mắt tắt hơi rồi vẫn chưa yên, vẫn còn bị người ta đem tên tuổi ra lợi dụng làm tiền nữa!
Tôi bảo chàng thanh niên đốn mạt:
- Phải rồi, tôi nghĩ rất kỹ rồi và tôi nhắc lại ông là một thằng khốn nạn. Ông có thể đi ăn mày, đi ăn cắp, tùy ý, vì xã hội này tự do dân chủ hoàn toàn, nhưng tôi yêu cầu ông một điều là từ giờ trở đi, ông không bao giờ được bôi họ trát trấu vào anh hồn một người đã quá cố của tôi là Phụng. Ai, tôi không dám nói, nhưng Phụng với tôi là bạn học từ lúc lên năm lên sáu, gia đình anh thế nào, vợ con ra sao, tôi biết quá.
Anh phải biết…
Có một tiếng động ở đằng sau. Tôi nhìn lại xem sao thì lúc quay lại, định nói tiếp, chàng thanh niên tự nhận là con trai Vũ Trọng Phụng đã biến mất đi đằng nào! Chỉ còn ông bạn tôi ngồi trơ trơ ra đó.
Mơ lại thời thôi học đi làm
Tôi đã hoàn toàn thành thực với chàng bịp bợm và chuồn lẹ: Vũ Trọng Phụng đối với tôi không phải là một người. Nhưng bạn là một anh anh em. Chính ông Dương Tự Quán, chủ báo Văn học ở Hà Nội đã có một lúc tin như thế và đã đặt câu hỏi trong một bài báo nhan đề Ba thằng họ Vũ trong đó có Tam Lang Vũ Đình Chí, Thiên Hư Vũ Trọng Phụng và tôi, Tiêu liêu Vũ Bằng.
Thực ra ba đứa chúng tôi không phải là anh em ruột thịt mà cũng chẳng phải cùng làng cùng xóm với nhau, nhưng Phụng và tôi cùng học một lớp, cùng ngồi một bàn với nhau từ thuở nhỏ ở Trường Hàng Vôi. Nhà  Phụng nghèo. Anh không thông minh vượt mức mà cũng chẳng siêng năng gì lắm. Đậu sơ học Pháp Việt rồi, tôi tiếp tục học thêm, còn Phụng ra sao tôi không rõ. Anh em từ lúc rời nhà trường cũng ít gặp nhau. Mãi đến khi tôi mười lăm mười sáu tuổi, có một hôm, một ông chú họ tôi làm thư ký ở Viễn Đông ấn Quán (IDEO) đến chơi nói chuyện công việc làm ăn ở sở, vỗ tay xuống chiếu, bảo:
- à quên, ở ban chú làm việc có một anh tên là Vũ Trọng Phụng, coi về công việc nhận in, vào sổ. Anh ta bảo có quen với cháu.
- Vũ Trọng Phụng… phải, có quen thật ạ? Anh ta làm ăn có khá không?
- Cũng thường thường. Lương được đâu mười đồng rưỡi… Anh ta còn trẻ mà đứng đắn lắm, đến sở làm không nói chuyện với ai, hễ có tí thời giờ rảnh rỗi nào thì lại hì hục ngồi viết báo…Chú chưa đọc bài nào của anh ta nhưng nghe như viết cũng khá…
Hồi đó, ở Hà Nội, viết báo là làm một cái gì hách lắm, không có bị coi rẻ như bây giờ. Ông chú tôi nói về Phụng với một niềm kính sợ. ít lâu sau đó, dở tờ Ngọ báo của Bùi Xuân Học ra coi, tôi thấy đăng nơi trang nhất, cột một, một chuyện ngắn nhan đề chống nạng lên đường. Chuyện ngắn nhưng mà dài, đăng liên tiếp hai ba ngày mới hết. Lúc ấy, tôi cũng bắt đầu viết trên An nam tạp chí của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu rồi, tôi cũng có tự phu của tôi, nhưng muốn cho thành thực triệt để tôi phải nói rằng đọc chuyện Chống nạng lên đường của Phụng, tôi thấy văn anh là trời, là văn tôi là vực và có một lúc tôi đã tự nhủ sao lại có người viết chuyện ý nhị mà mê ly đến thế. Tôi bị Vũ Trọng Phụng trinh phục ngay từ bài chuyện đầu của mình.
Nhưng chỉ phục thế thôi, chớ tôi cũng không tìm gặp anh làm gì vì ít lâu sau đó thì có tin anh mất việc vì viên giám đốc bắt gặp anh đang viết báo trong giờ làm việc. Thế rồi cuộc đời trôi đi êm đềm: tôi vẫn đi học và viết bài cho các báo, còn Vũ Trọng Phụng thì cách đó ít lâu, tôi được tin anh bỏ nghề thư ký đi làm báo hẳn và trong các báo đó có tờ Nông công thương của ông Phạm Chân Hưng, thân phụ thi sỹ Phạm Huy Thông và Phạm Huy Thái… Đến báo này, tôi lại phục Vũ Trọng Phụng thêm một tầng nữa vì chuyện Cái răng vàng và một chuyện nữa mà tôi quên mất tên đề, tả mấy cô gái ở hàng Mắm ngồi sau cái mành mành tập đánh đàn Tàu hồ sừ sang sê líu  .
Tuy nhiên anh em vẫn có ít cơ hội gặp nhau. Gặp các bạn học cũ hỏi thăm thì cho biết sơ sơ rằng Phụng khổ lắm, một mình đi làm kiếm ăn nuôi một người bà và một người mẹ góa bụa, trong một căn nhà thấp mà tối như cái hũ.
Phải đợi đến lúc làm báo Nhật Tân do Ô.Phùng Tất Đắc chủ biên, tôi mới lại gặp Vũ Trọng Phụng. So với hồi đi học, Phụng hom hem hơn và thầm lặng hơn. Anh nói với tôi:
- Cái nghề báo là nghề khốn nạn. Chẳng kiếm ăn được ra gì mà nó làm cho mình xay mê khốn nạn.
Tôi hỏi thăm cân trạng thì biết chỉ vì anh mê viết báo quá nên bỏ hãng IDEO: Thằng chủ nó thấy mình viết, thực tình nó cũng chẳng nói gì, nhưng mình gét mấy thằng An Nam làm với mình, nịnh chủ, nó cứ nói xa nói gần nên mình tức không làm nữa.
Không bao giờ nghề báo đãi ngộ Vũ Trọng Phụng một cách xứng đáng. Trong suốt cả một đời làm báo với nhau, cho nên khi Phụng chết tôi chưa bao giờ thấy Phụng kiếm nổi mỗi tháng một trăm đồng bạc. Nhà ở đã chật hẹp, ăn uống quanh đi quẩn lại chỉ có muối dưa, dăm thì mười họa mới thấy được đĩa thịt, nhưng Phụng không hề phàn nàn với ai bao giờ, ngay chính anh em thân thiết cũng nhiều người không biết.
Tạng anh yếu, khảnh ăn. Nhiều người tưởng anh là người tiết độ. Thực ra Phụng tiết kiệm từng đồng xu, trong khi tiết kiệm lâu rồi nó quen đi, nhưng hôm nào gặp bạn bạn dư dả rượu từng lít, hút thuốc phiện hàng vài chục điếu nhưng anh không ưa thuốc lá, chỉ hút thuốc lào sòng sọc cả ngày và khi nào gặp rét quá cũng làm một hai miếng trầu bỏm bẻm.
Nhưng tằn tiện không có nghĩa là thờ đồng tiền làm chủ. Anh kỵ nhất là đồng tiền phi nghĩa. Về điểm này, tôi còn nhớ hai kỷ niệm:
1) Hồi làm báo Công dân gồm có Ngô Tất Tố, Phùng Bảo Thạch, Nguyễn Triệu Luật, Vũ Liên, Đặng Đức Tô, Vũ Trọng Phụng… tôi phụ trách chức chủ nhiệm kiêm chủ sự. Trị sự tức là phải làm tiền chi báo. Có một lần, tôi làm tiền một cách bất chính, dấu Phụng, nhưng sau Phụng biết. Đông đủ anh em, Phụng mạt sát tôi tồi tệ. Đa số anh em cho là Phụng dở hơi, quân tử tầu, nhưng riêng tôi vẫn nhận là Phụng phải, bây giờ mỗi khi xoay tiền, tôi vẫn đắn đo suy nghĩ và nhớ lại những lời Phụng mạt sát tôi.
2) Cùng lúc làm báo Công dân, Phụng có viết thêm Hà Nội báp cho nhà Lê Cường ở chợ Hôm. Có một hôm, không nhớ vào dịp gì, Lê Cường mở một tiệc mời các anh em quen biết cùng dự với anh em bỉnh bút tờ Hà Nội báo và nhà xuất bản Lê Cường. Giữa bữa tiệc, Lê Cường hỏi thăm Phụng làm báo Công dân như thế được bao nhiêu một tháng. Phụng trả lời gọn thon lỏn: Chẳng được đồng nào cả. Thực ra chúng tôi làm báo Công dân theo tinh thần tập đoàn, có cùng ăn, lỗ cùng chịu. Có tháng anh em có tiền, nhưng có tháng đi hát đi hút hết, không còn một xu. Riêng đối với Phụng, anh em thể nào cũng giữ lại một chút để đưa anh. Nhưng vốn không ưa những anh giàu lỏi, Vũ Trọng Phụng cứ nói như thế để chọc tức Lê Cường.
Lê Cường bèn đề nghị: Tôi mến phục anh đã lâu. Bây giờ tôi bàn với anh thế này: anh về hẳn đây làm cố vấn cho tôi, mỗ tháng tôi xin đưa anh một số lương tương đương với số lương cộng lại mà các báo hiện giờ anh giúp việc trả cho anh.
Vũ Trọng Phụng soa tay một cách niềm nở. Ai cũng tưởng anh nhận lời. Anh nói chậm rải và từ tốn với vợ chồng Lê Cường:
- Ông bà (Vũ Trọng Phụng thường gọi các người quen biết là ông và bà chó không gọi ai là anh, chị, trừ mấy bạn thân thiết thì kêu là mày, hay là tớ và đàng ấy) - Ông bà có lòng yêu mà dạy thế, tôi xin cảm ơn và vạn bội. Nhưng ông bà lại là người giàu có, làm nghề bán thuốc lậu và tim la, nên có lẽ không quan niệm được rõ ràng nghề viết sách và viết báo ra thế nào. Viết sách báo không phải là đi làm công. Người có báo nhờ người viết báo viết để cho họ bán được báo lấy tiền, chớ không phải làm ơn cho ai hết mà người viết báo giúp đỡ người chủ báo chớ không phải sống nhờ chủ báo. Vậy tôi viết báo giúp ông bà chớ không phải tôi đi làm với ông bà. Mà đã giúp ông bà làm báo thì tôi phải viết. Tôi không muốn giữ một chức cố vấn tếu đẻ ông bà thí cho một số tiền hàng tháng, mà chính tôi không phải làm gì. ấy là nói ông bàn có lòng tốt thực. Tôi biết có nhiều người mượn người ta làm cố vấn mà thực ra lại muốn dùng người ta làm quản gia. Cái gì chớ cái nghề làm quản gia, thực quả là tôi chưa học tới bao giờ hết.
Vũ Trọng Phụng có một lối nói rất đều mà lễ phép, trong khi nét mặt vẫn thản nhiên không cảm động. Trong những ngày túng thiếu nhất, không có một ai cần biết Vũ Trọng Phụng cần tiền. Mà nếu thí dụ có anh trộc phú nào đưa tiền, anh không bao giờ chịu lấy, nhưng trái lại anh rất sẵn sàng xin bạn một hào đi xe vì quần áo diện thế này mà đi bộ trông ê lắm.
Thực ra, Phụng không bao giờ có một bộ quần áo dép: mùa rét có một bộ tím ray ê mà mùa nựa chỉ có hai bộ trắng, nhưnh anh giữ gìn hết sức cẩn thận và hư mặc anh trịnh trọng như thể bận một thứ gì mắc tiền hết sức mà thiên hạ không ai có. Nói như thế không phải là anh le.Vũ Trọng Phụng bình dân như không ai có ai có thể bình dân bằng, nhưng anh yên trí rằng mình nghèo thì càng phải ăn mặc cho cẩn thận, sạch sẽ như thế không có đứa nào coi thường được mình. Anh giữ lại bề ngoài cũng như tâm đức vì anh cho rằng việc mình làm, lời mình nói ví như không có ai biết thì có trời biết, đất biết, không nên luộm thuộm. Có lẽ chính vì nghĩ thế, Vũ Trọng Phụng những khi uống trà hạt và hút thuốc lào say vẫn thường gõ cái xe điếu vào cái bát điếu mà ngâm một câu thơ rất vè mà anh cho là hay, trích ở trong truyện Tống Trân:
Thịt mỡ thái vuông con cờ
Lấy ai chấy rận cho bà bà ôi!
Không bao giờ anh em biết tại sao anh lại rất thích câu thơ đó. Riêng tôi cho rằng có lẽ hai chữ thịt mỡ anh liên tưởng đến câu nói của ông thánh Thịt thái không vuông không ăn, chiếu trải không ngay không ngồi. Nhưng đó chỉ là phỏng đoán.
Để dành tiền lấy vợ
Vũ Trọng Phụng theo Tây học từ thuở nhỏ, nhưng phục đạo Khổng và theo đạo Phật. Vì đau ốm từ lúc lớn lên, anh có tính hay gắt gỏng, nhiều khi về đến nhà chẳng nói chuyện với ai vì sợ nói ra mà đổ quạu lên thì mang tội bất hiếu với bà và mẹ.  Lúc làm Công dân và Nhật Tân, Phụng ở gian sau một căn nhà bé nhỏ, thấp lụp sụp và tối tăm ở Hàng Bạc. Tất cả nhà chỉ có ba người: một bà nội góa, một mẹ góa và anh. Có lẽ cũng vì đạo Khổng, lúc nào anh cũng nghĩ đến chuyện nối giõi tông đường vì thế cho nên ngoài những giờ viết báo và đi chơi láo với nhau, anh thường hay tâm sự với các bạn thân về vấn đề đó và quả quyết thế nào cũng phải lấy vợi để có một đứa con trai nỗi giõi.
Đau đớn thay cho Phụng Cái thân đã đa bịnh, nghề văn nghề báo lại không đủ nuôi người, vậy mà lúc nào cũng phải tính toán cách gì để có một người vợ sớm khuya bầu bạn và giúp đỡ anh nuôi mẹ, nuôi bà. Vì mang ở trên vai nhiều gánh nặng, vì óc lúc nào cũng phải tính toán chuyện gia đình, vì không biết xoay sở ra thế nào để đối phó với cuộc đời sỏ lá dồn cả đời anh vào thế kẹt, Vũ Trọng Phụng không còn cách gì khác hơn là viết chúi mũi, chúi tai vào viết. Lúc đó người viết văn người viết báo ở Hà Nội sống nhàn nhã, ung dung chứ đâu có vất vả như ở đây bây giờ: mỗi tuần viết một hai bài báo, hay vài tháng viết một cuốn sách cũng tạm đủ tiêu, chứ đâu đến cái nỗi vui mặt làm tiền bất kể dở hay phải trái, viết đến nỗi phải chính thuốc cho trong con mắt ra không ngủ, viết đến nỗi phải gục xuống ngất đi vì thổ huyết ra trên giấy… Thời đó Vũ Trọng Phụng có lẽ một trong những nhà văn nhà báo rất khan hiếm phải viết cho ba bốn tờ một lúc: tờ thì viết phóng sự, tờ thì viết pô tanh trào phúng, tờ thì viết chuyện ngắnm, tờ thì viết chuyện dài… nếu không viết như thế thì không đủ bề nào để trả tiền nhà cửa điện nước, tiền may mặc, thuốc thang, tiền đóng góp khi có tiếng cười tiếng khóc… và nhất là để …dành để dụm lo cưới vợ, kiếm một vài mụn con, nối giòng họ Vũ, vì Vũ Trọng Phụng là con một, không anh trên, không em dưới.
Thôi dĩ vãng đã không kéo lại,
Còn tương lai liệu phát đền bồi.
Họa may cảm động đến trời,
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong.
Để tiền ngậm cười chín suối,
Nay gia khương còn nối về sau.
Hay ra lại vang cơ cầu
Hèn ra sơn thủy tiêu sầu cũng khoan.
Chính vì Vũ Trọng Phụng bị lâm vào một thế bí như thế cho nên anh mới viết nhiều. Riêng tôi biết chắc chắn rằng nếu Phụng không khổ như thế thì văn học sử ngày nay chưa chắc đã có dịp nói đến những kịch như Không một tiếng vang, Lữ cách bao già, những phóng sự như  Cạm bẫy người, Lục xì, Làm đĩ, Kỹ nghệ lấy Tây, những chuyện tình vì không duyên kiếp, Dứt tình hay những chuyện xã hội như Giông tố và trào phúng như Số đỏ, Trúng số độc đắc.v.v…Thoạt đầu, Vũ Trọng Phụng ham viết, thích nghề báo cũng như hầu hết những người mắc cái nghề nghiệp văn chương sau này. Từ sau khi viết chuyện dài Võ đê (mà anh em thường nhái là vợ đẻ) vì báo Tương lai in chuyện đó không bỏ dấu, mang cái thân đa bịnh lại gặp nhiều chuyện chán trường Phụng đôi khi tỏ bày tâm sự với tôi chán ngán với cái cái nghê viết cao quý… không tả được. Nhưng chán mà cứ phải viết. Mà đặc biệt nhất là thường thường vào những cái cữ chán (đời, chán nghề như thế thì anh lại đẻ ra những tác phẩm mà bây giờ thiên hạ nhắc đến nhiều)!!!
Thực ra, trong một hai chục năm làm báo, viết văn với Phụng, sống chung với nhau hàng ngày, ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu trác táng cùng kỹ viện, tôi chưa thấy Phụng viết mộtt tác phẩm nào thật dụng công.Anh quan niệm tất cả những cái gì viết ra đó là viết tạm để lấy tiền, chứ thâm tâm anh nghĩ thì muốn viết ra đó là tác phẩm thật giá trị, phải hoàn toàn thơ tới tâm hồn, phải có tạm đủ tiền nong hàng ngày và phải có tiện nghi trong cuộc sống hàng ngày một chút. Phải rồi: Thắo một ngọn đèn dầu Hoa Kỳ lên, kê một cái ghế trong một cái phòng chật hẹp muỗi cứ như là chấu ung lại hơi đói đói mà phải viết, viết để lấy tiền, sao gọi là viết được? Vì thế Vũ Trọng Phụng ít khi ở nhà thường đến nhà báo, lên gác, tìm một chỗ ít người, nhất là ở hàng hiên, trải một
Tiếp trang 38
Cạnh và nằm phủ phục xuống viết bài báo viết chuyện, viết pô tanh và có lúc viết bút chiến rất hăng - như lúc có một số đồng nghiệp chê anh là nhà văn khiêu dâm, anh bút chiến với linh mục J.B. khích chủ nhiệm báo Vì Dân hay Vì chúa gì đó ở Huế… Vũ Trọng Phụng suy nghĩ trước, trong khi bàn phiến với anh em, đến khi cầm bút là chỉ việc viết thôi, khạng nghĩ. Anh tiết kiệm từ trang giấy. Chữ nhỏ và xít với nhau, ít xoá ít chữa. Lúc thường, mặt anh đã buồn; lúc viết mặt anh liếng, miệng anh há ra, viết nhanh, nhưng tưởng trong rất vất vả nên anh em thường đùa, gọi bộ Việt Nam vong quốc sử
Cô viết đến đâu rồi nhỉ?
Bộ Việt Nam vong quốc sử ấy ít khi cười hay giận trước những lời riễu của anh em. Có khi nào bị phá quá, không viết được, anh lại ngồi dậy hút thuốc lào, thở khói rất từ từ hai mắt lim rim, tán chuyện vẩn vơ một lát về thời cuộc, về bài báo Canard enchainé hay Le monde. Bởi vì Vũ Trọng Phụng là một người ham đọc ham hiểu. Có thể nói trong bọn chúng tôi lúc ấy anh là người theo sát nhất tình hình quốc tế mà anh cũng là người tìm hiểu nhiều nhất những danh từ khó hiểu trong báo Canard echainé; nhưng anh ít viết về chánh trị chỉ vì một lẽ rất thông thường viết về chánh trị lúc ấy không ăn tiền.
Vũ Trọng Phụng chuyên chú về phóng sự và tiểu thuyết là vì độc giả ấy chỉ ưa sơi hai món đó mà các nhà báo và nhà xuất bản cũng chỉ đặt anh hai món đó. Phụng viết cho Công dân, Tương lai, Hà Nội báo, nhà xuất bản Mai Lĩnh, nhà xuất bản Tân Dân… viết lung tung, vì thế mà khi cầm cây bút viết anh rất nảy mình không biết từ kỳ trước mình viết đến đâu rồi và hỏi ầm anh em Kỳ trước tớ viết đến đâu rồi nhỉ!. Đó là trường hợp các chuyện Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, Lấy nhau vì tình. Riêng có truyện Đứt tình và truyện Người tù được tha bán cho nhà Tân Dân là Vũ Trọng Phụng viết nguyên một cuốn vì nhà Tân Dân thường đòi hỏi những truyện viết hết và trả tiền một lúc. Ngoài ra, các phóng sự điều tra của anh đều viết từng kỳ một, in đến đâu, viết tiếp đến đấy, do đó có nhiều khi có những đoạn  tiểu thuyết viết rồi không biết tiếp ra sao, anh lại hét ầm anh em lên: Chết bỏ mẹ, bây giờ phải cho nghị Hách làm gì nhỉ? Hay là cho nó vào tù mẹ nó đi? Hoặc: Bà chánh Đoan kỳ trước mê thằng Xuân Tóc Đỏ, kỳ này các ông khuyên tôi có nên cho Xuân Tóc Đỏ hiếp bà ấy chưa? ấy, chưa biết chừng con mụ ấy lại thích bị người ta hiếp, nếu nó chưa biết người ta!
Có những đêm canh tàn rượu tỉnh, anh em nằm nghiêng nghe Phụng tâm tình thì biết rằng, đối với anh, cái khổ vật chất tuy khổ thật nhưng nó chỉ là thứ yếu; khổ nhất trong đời anh viết báo, viết văn là những lúc viết tiểu thuyết mà không có dàn bài từ trước, cứ mỗi kỳ lại phải chế tạo ra một vài sự việc để cho nó mạch lạc và phải cố gạn óc ra xem mấy nhân vật chính trong chuyện của mình viết đã nói những câu gì và có những hành động gì sợ léng phéng mà mâu thuẫn với nhau thì chết sớm
Bây giờ, tôi không còn nhớ rõ ràng cho lắm, nhưng mang máng biết rằng Vũ Trọng Phụng viết khốn nạn, viết khổ sở như thế mà vẫn chẳng đủ vào đâu cả, nói chi đến chuyện để dành tiền lấy vợ; sở dĩ về sau này anh có một món để lo công chuyện, ấy là nhờ vì anh bí quá phải viết cuốn tiểu thuyết Người tù được tha bán nhà Tân Dân lấy một lúc một món tiền kha khá. Nhờ thế, cái mộng của anh ấp ủ từ bao nhiêu lâu nay thành tựu. Anh lấy được người vợ ở Mộc Quan Nhân, quen biết từ hai ba năm về trước nhưng:
Tình phụ tử cay chua đến ruột
Nỗi thất gia đau buốt tạn xương.
Phụng lấy được vợ mấy tháng thì bịnh lao của anh bắt đầu phát nặng và cũng như Cao Bá Nhạt khi xưa:
Liễu bồ đôi chút cành trơ
cho đến khi qua đời, cái mộng của Phụng chỉ thành một nửa: anh chỉ sinh được một cô con gái. Tôi nói một, là vì  lúc từ Hà Nội di cư vào Nam, qua ở Hải Phòng tám tháng, được tin chị Vũ Trọng Phụng xuống thăm dò đường đất tôi có đến thăm thì  chị chỉ cho tôi cháu ấy và chép miệng cho biết là lúc Phụng tạ thế, anh chỉ có một con và anh oán ức một điều từng ám ảnh anh là không có con trai nối giõi.
Vì biết rõ như thế, và cũng vì lúc Phụng hấp hối tôi có đến nhà thăm, thấy quanh đi quẩn lại không có ai ngoài người vợ hiền và đứa con  gái nhỏ tuổi mà đã phải đi theo mẹ để tập buôn, tập bán, cho nên nghe thấy nói có một thanh niên nghiện hút