Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Xin đừng trách các nhà văn ta

Nguyễn Hiếu
Thứ sáu ngày 16 tháng 11 năm 2012 9:02 PM

Nhân chuyện Mạc Ngôn được Nô ben ….

1.
         Mặc dù trên thế giới và ngay cả ở quê hương của nhà văn sự kiện Mạc Ngôn được nhận giải Nô ben cũng theo thói thường ồn lên hai dòng dư luận trái chiều. Người khen thì khen hết lời. Người chê thì cũng tìm đủ mọi ngôn từ để chê. Riêng tôi với tư cách là một nhà văn cùng thế hệ ( Mạc Ngôn sinh năm 1955 nếu tính chênh nhau một thập kỉ vào một trang lứa) thì có thể nói lấy làm mừng cho tay nhà văn họ Mạc này và mừng cho nứơc Trung Hoa thêm một lần được vinh danh thông qua tên tuổi một nhà văn ở giải thưởng danh giá nhất hoàn cầu. Nhìn người rồi lại quay lại ngó ta. Tai văng vẳng lời các vị quyền chức mựơn lời của nhân dân thỉnh thoảng lại ra rả trên diễn đàn ra điều quan tâm đến văn chương. “ Sao chúng ta chưa có những tác phẩm lớn xứng với giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, của đất nước ?” 
            Nghĩ đến niềm vinh dự của Trung Hoa chói ngời qua tên tuổi Mạc Ngôn. Tôi tìm đến sự tự ngẫm của một nhà văn để rụt rè trả lời câu hỏi kia và thêm vào đó đặt thêm nghi vấn” vậy nền văn chương xứ ta đã có tác phẩm lớn chưa ?”.

Thành công khi tạo ra trong đầu mỗi nhà sáng tác một nhà kiểm duyệt, một cảnh sát văn hoá.
         Sự kiện non sông ta dành được độc lập tự do vào mùa thu 1945 sau hàng thế kỉ dưới ách ngoại bang đã làm cho mỗi nhà văn chân chính cũng là mỗi một công dân Việt nam đều vô cùng phấn khởi, hít thở không khí tự do và niềm vui độc lập. Người cầm bút đang tự tung tự tác trong sự mô tả hiện thực cuộc sống như nó vốn có bỗng đột nhiên được định hướng viết vì “mục tiêu chung”. Những Nguyễn Công Hoan, Ngô tất Tố, Nam Cao, Mạnh Phú Tư, Nguyễn Tuân .. chợt thấy ngỡ ngàng khi được xếp trong đội ngũ có tổ chức, viết theo tôn chỉ”văn nghệ phục vụ chính trị”…...Nhưng ở “cái buổi ban đầu dân quốc ấy”niềm vui của người dân được tự do trong mỗi nhà văn đã lấn át mọi sự cấn cá để cho ra những tác phẩm tâm huyết mà lúng búng “không biết đã đúng ý chưa”. Có thể vì cái lẽ đó nên giai đoạn 9 năm trường kì kháng chiến ( từ 1945 đến 1954 ) ngoài việc các nhà văn cao tay nghề và đầy nhiệt tâm của ta chỉ cho ra những tác phẩm nặng màu ghi chép theo kiểu mì ăn liền kiểu như kí sự Trần Đăng, kí sự Cao Lạng thì đã bắt đầu phân chia ra những mảng riêng biệt với những vết rạn nứt lờ mờ hiện ra trong truyện ngắn đôi mắt.  Nếu trong khói lửa”máu gắn ngưòi ta lại” thì hoà bình về”lợi chia ngưòi ta ra”. Các nhà văn, nhà thơ vốn mang trong mình tố chất tự do để nhìn nhận cuộc đời, từ đó sinh ra những tác phẩm mô tả “cuộc sống như nó vốn có”. Những bộc lộ yếu tố văn nhân tự do tự tại trong cuộc sống thường trực nơi sâu thẳm  mỗi cá nhân kẻ cầm bút lập tức bị qui ghép thành những ngôn từ đao to búa lớn đủ sức giết chết bản ngã thơ mộng nhưng cực kì yếu đuối của các nhà sáng tác văn nghệ . Những đòi hỏi cá nhân rất cần thiết cho ngưòi cầm bút bị gắn cho những tính từ mang tính đấu tranh giai cấp nâng lên thành chủ nghĩa kiểu như “chủ nghĩa cá nhân tiểu tư sản. Ngược lại lợi ích của giai cấp công nông”. Tôi không tin dư luận cho rằng vì sự đố kị, ghen ghét của một vài ông làm thơ có chức sắc đã gây ra sự biến khủng khiếp đối với văn nghệ sĩ hồi đó nhưng lịch sử văn chương nứơc ta đã ghi nhận một cuộc thanh trừng, tiễu phạt trong văn nghệ nhằm vào những nhà văn nghệ sĩ hàng đầu của nứơc ta hồi đó và cả sau này  (những ngưòi đã có đóng góp mang dấu lịch sử cho dân tộc làm sáng danh nền văn nghệ Việt nam). Sự trừng phạt này diễn ra tàn khốc không kém “cải cách ruộng đất”. Nhiều văn nghệ sĩ bị ghép vào một tổ chức mang một cái tên rất đẹp trong ngôn từ đó là bè lũ “nhân văn giai phẩm”( NVGP). Hàng loạt văn nghệ sĩ bị kỉ luật, bị tù đầy, bị rút phép thông công trong sáng tác. Những Văn Cao của “suối mơ”,”thiên thai” và của cả “Chiến sĩ Việt nam”,”Bắc sơn”,”tiến quân ca”( quốc ca Việt nam).., Những Nguyễn Bính với những câu lục bát làm vẻ vang thi ca Việt nam. Những Nguyễn Tuân ngang tàng với những thiên bút kí làm xiếc trong ngôn từ ..cũng dừng bút khiến nền văn nghệ Việt nam mất đi bao tác phẩm vô giá. Văn nghệ sĩ vốn quen một khoảng trời tự do cá nhân bao la rất cần cho sự sáng tạo bắt đầu biết rùng mình ngơ ngác xem viết thế nào cho phải đạo. Cụm từ  “NVGP“đẹp là thế bắt đầu chuyển nghĩa trở thành nỗi ám ảnh ác mộng lâu dài đối với văn nghệ sĩ đến độ đủ sức làm cụt hết mầm sáng tác trong họ. Những văn nghệ sĩ hàng đầu cỡ Văn Cao, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Trần Dần .. tịt ngấm sáng tác hàng vài thập kỉ . Những cây bút mới ra đời chớm viết một chút về hiện thực xã hội như Vũ Bão với”sắp cưới” , hay Nguyễn huy Tưởng với tuỳ bút ”một ngày chủ nhật “ nói về suy tư thoáng đòi hỏi chút tự do cá nhân ..cũng ngay lập tức nếm đòn vì bị cho rằng sai lệch tư tưởng khiến họ khốn đốn.  Ông vua ca khúc về tình yêu và mùa thu Đoàn Chuẩn hình như không bị gép vào bè lũ NVGP nhưng sau ca khúc trứ danh”gửi người em gái” viết năm 1956 cũng vĩnh viễn dừng bút vì e ngại bóng gió. Còn Chế Lan Viên một trong những người được xếp vào loại thông minh bậc nhất Hội nhà văn Việt nam như ông tự đánh giá khi tôi vinh dự được hầu chuyện ông vào năm 1972 nghĩa là gần 15 năm sau sự cố NVGP còn ghi bên lề bản thảo bài thơ” đến khi nào em cởi lá nguỵ trang” của tôi một câu đầy ám ảnh”nếu không tự đề phòng , anh sẽ rơi vào tư tưởng nhân văn đấy”… Chính sự biến NVGP đã là lời nhắc nhở ban đầu đầy khắc nghiệt đối với văn nghệ sĩ nước ta về sự “phải đạo”. Sự biến NVGP là tác nhân quan trọng khiến trong mỗi văn nghệ sĩ nứơc ta dần dần hình thành bào thai một biên tập viên hà khắc, một gã cảnh sát luôn nắm tay, day óc khi cầm bút sáng tác. Chưa hết. Sau làn roi mang tên NVGP đã bộc lộ toàn bộ sức mạnh kỉ luật, đủ sức ne Văn nghệ sĩ Việt nam vào hàng ngũ, kỉ cương. Sự ngoan ngoãn của họ đã thành thường trực song cái máu tự do cố hữu thỉnh thoảng vẫn chồi lên và lập tức bị trừng phạt. “Cây táo ông Lành”. Một bài kí bình thường như trăm bài kí khác có chống ai đâu  mà chỉ vì phạm huý một vị quan văn nghệ mà Hoàng Cát khốn khổ. Hai ca khúc”Tâm tình ngưòi thuỷ thủ”và ca khúc  về  thợ mỏ tôi không nhớ tên ( tôi chỉ nhớ đoạn ca từ  “anh hái cành hoa thơm từ trên đỉnh núi cao về tặng em yêu ướp hương trên mái đầu”) ( hay có người con gái với đôi môi hồng như san hô cũng không thể nào làm anh xa được em yêu) của Hoàng Vân viết khoảng  1959, 1960 cho thợ mỏ và thuỷ thủ vận tải biển đấy chứ nhưng chỉ vì trong lời hát có những câu ca lóng lánh, mang chút cá nhân có tính  “tiểu tư sản”) mà cũng bị cấm tiệt không được phổ biến sau hết cảnh cáo này sang cảnh cáo khác. Đấy là chuyện ngưòi còn chuyện của tôi. Năm 1988 nghĩa là sau hơn 30 năm sự biến NVGP tôi viết truyện ngắn “chuyện quan trọng của bà Cả Đào” (đứng ở hệ qui chiếu thời sự thì TN này thực hiện rất đúng tinh thần NQ 4 vừa qua là phê bình và phê bình) . TN này do nhà thơ Phạm Tiến Duật biên tập. Ông viết cho tôi thẻo giấy nhờ biên tập viên Trần Thị Thắng đưa cho tôi ghi rõ mấy dòng mà nay tôi thuộc lòng “Hiếu ơi vì khuôn khổ tờ báo mình cắt của Hiếu mấy dòng. Khi nào in sách Hiếu lấy lại cho khỏi phí”.Mấy dòng đó là “ngày xưa trong làng có một lý trưởng ngày nay bao nhiêu thường vụ là từng nấy lý trưởng”. Còn gần đây, năm 2009 khi tôi viết kịch bản”Thầy Chu”. Không ít đoàn kịch định dựng kịch bản này rồi lại thôi chỉ vì lý do nhậy cảm bởi trong đó có hai nhân vật lịch sử người Trung Nguyên đã thao túng và bầy nhiều mưu kế độc ác làm hư hỏng vua Trần Dục Tôn. Đó là gã thầy thuốc Trâu Canh và thầy tuồng Lý Nguyên Cát. Truyện vừa”sự biến“ tôi viết về vụ bắn bẩy ngưòi cộng sản ở gảnh đình Chèm làng tôi. Khi đưa vào Tuyển tập của tôi NXB cũng đề nghị cắt các đoạn viết về tướng tầu Tưởng là Tiêu văn và Lư Hán cùng vì lý do nhậy cảm. Lịch sử còn bị uốn cong, cắt xén như thế trách chi …
           Trong gíáo trình được giảng dậy trên bục trường đại học các nhà lý luận văn học nước ta xếp các sáng tác thời trứơc Cách mạng 1945 của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô tất Tố, Nam Cao… vào cái gọi là dòng văn học hiện thực phê phán ..và cho đến nay tôi vẫn nhớ lời giảng sang sảng của các thầy rằng “ dòng văn học đó hay thì hay thật nhưng vẫn bế tắc vì chỉ thuần tuý mô tả, phản ánh hiện thực xã hội mà chưa chỉ ra hứơng đi, hứơng phát triển của nhân vật”. Còn dòng văn học được duy danh với cái tên đầy chất chính trị là dòng văn học hiện thực XHCN với các tên tuổi tiêu biểu của Liên Xô như Goóc Ki, Pha Đê ép, Mai cốpxki , Ôxtrôp xki …Của Trung Quốc là Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhược.. mà các nhà văn Việt nam nên và buộc phải noi theo để từ đó xây dựng cho nhà văn xứ ta có một thế giới quan biện chứng đủ sức chỉ ra sự phát triển đúng đắn của nhân vật hứơng về tương lai. Lý luận và tôn chỉ của tổ chức quản lý văn nghệ như thế nên “đống rác cũ “ của Nguyễn Công Hoan mới bị đánh tơi tả vì chỉ phản ảnh thuần tuý hiện thực. Hoàng Tiến , tác  giả  “sương tan” mới bị đánh đến”tan xương” vì không viết theo phương châm sáng tác của phương pháp hiện thực XHCN.
         Trong một lần tình cờ trò chuyện với vị được xếp là nhà phê bình lý luận hàng đầu nứơc ta nhưng chỉ để lại những bài phê bình a dua, nông choèn theo kiểu giới thiệu sách. Ông này được mời vào ban thẩm định cuối cùng cho danh sách nhà văn ứng cử viên giải thưởng văn học nghệ thuật Hồ chí Minh và giải thưởng nhà nước. Trong lúc vui chuyện nhà phê bình này tiết lộ một tiêu chí để tuyển lựa. Ấy là những vị nào có tác phẩm viết về cải cách ruộng đất thì hay dở thế nào không biết cứ dứt khoát gạt ra( mặc dù sinh thời Hồ chủ tịch đã chân thành nhận ra sai lầm khi làm CCRĐ và kỉ luật TBT Trường Chinh để nhận lỗi trước nhân dân. Vậy mà gần 60 năm người ta vẫn đánh dấu đen cho nhà văn khi viết về sự kiện khủng khiếp này) …Không biết sự thật câu nói này đến đâu, nhưng giả dụ đó là một tiêu chí thì thêm một lần nữa lơ lửng trên nền văn chương, nghệ thuật nứơc ta vẫn có ngọn roi sẵn sàng trừng phạt những nhà văn thuần tuý chỉ biết văn chương quên đi nhiệm vụ được xem là cao cả - phục vụ chính trị. Hiện nay trong hơn nghìn nhà văn có thẻ môn bài hội viên HNV cùng vài nghìn những cây bút chưa có môn bài thì có đến 99,9 % các vị đều đang sáng tác với sự chỉ đạo vô hình của một biên tập viên, một viên cảnh sát hà khắc đang thường trực chính trong ngưòi mình và sẵn sàng cắt đi mọi câu chữ dễ gây ra những hậu quả không lợi cho tác giả chỉ vì cảm hứng văn chương .Viết văn, làm thơ trong vòng kiềm toả như thế liệu có thể sáng tạo ra những tác phẩm lớn xứng đáng với dân tộc, với đất nứơc, thời đại không  ?

Ngưòi ta chỉ chấp nhận và giới thiệu ra nứơc ngoài những tác phẩm làng nhàng, an toàn mà gạt đi, tạo ra một mạng lưới vô hình để dìm  những tác phẩm hay phản ánh đúng bản chất  xã hội, nói về khát vọng của dân tộc  .
           Trong cuộc họp báo mừng giải thưởng Nô ben Mạc Ngôn nói một câu rất hay và rất đúng cắt nghĩa vì sao ông được giải nô ben”ban thẩm định giải có lẽ bị lay động vì tác phẩm của tôi nói lên đời sống, văn hoá độc đáo của Trung Quốc và nếp sống của dân tộc”.
          Đã từ lâu theo dõi giải văn học Nô ben nói riêng và các giải văn chương quốc tế nói chung tôi nhận ra một điều. Các giải này mang tầm vóc toàn cầu nhưng họ lại rất quan tâm đến tính đặc thù dân tộc của tác phẩm được tuyển chọn. Chính tính đặc thù này được biểu hiện một cách tài năng vượt trội sẽ là tiêu chí để đoạt giải. Tôi lại nhớ sự kiện hình như năm 2010 thì phải. Một nhà kinh tế ngưòi Mỹ nổi tiếng thế giới đến nói chuyện ở TPHCM. Vé vào cửa để dự buổi nói chuyện này lên đến 500, 600 USA. Trong buổi nói chuyện đó ông này có khuyên Việt nam ta đại ý ”nền kinh tế Việt nam muốn phát triển, nứơc Việt nam muốn được thế giới tôn vinh thì Việt nam với đặc trưng con ngưòi , tiềm năng và thế mạnh của mình thì nên biến thành nhà bếp của thế giới “. Theo thiển nghĩ của tôi . Nhà kinh tế lớn này đã căn cứ vào sự cần cù, khéo léo của ngưòi Việt nam và tiềm năng nông nghiệp, lợi thế đất đai biển rừng nứơc ta để đưa ra lời khuyên chí lý đó. Nhưng hơn hai mười năm qua với chủ trương để đến năm 2015-2020 Việt nam ta thành một nứơc công nghiệp hiện đại nên rừng chúng ta bị phá, các dòng sông bị ô nhiễm, đất ruộng nông nghiệp bị thu hẹp biến dạng ra sao. Con người Việt nam bị mất an toàn như thế nào từ sự ô nhiễm không khí, nguồn nứơc đến sự mất an toàn thực phẩm. Nòi giống ta đang bị nguy hại biến thái về sự ô nhiễm toàn phần đó …Nhưng thôi đây là chuyện của các nhà quản lý vĩ mô đất nứơc này còn chúng ta quay về đề tài văn học.
        Tôi nhớ trong chiến tranh từ báo chí đến văn chương các nhà quản lý nưóc ta luôn luôn chấp hành chủ trương định hứơng cho các nhà văn viết một cách hào hùng, cổ động cho việc ra trận. Biểu dương và tán thưởng những tác phẩm kiểu như “đường ra trận mùa này đẹp lắm”.” Còn gì vui hơn đường ra trận mùa xuân …”.Những bút kí choang choang hùng  hồn  kiểu “cây tre Việt nam “,“đường chúng ta đi “mà cấm tiệt và dấu nhẹm những tác phẩm dù chỉ nói chạm một chút nỗi đau sự mất mát và tối kỵ nói đến những góc khuất trong lòng ngưòi trứơc sự hung bạo của chiến tranh. Thế nên người ta mới hùng hồn phê phán bài thơ “vòng trắng “, rồi nhẩy vào chê một cách a dua một số phim, tác phẩm nứơc ngoài thời gian đó như phim“khi đàn sếu bay qua”, tiểu thuyết “bác sĩ Rivagô”…bởi các tác phẩm này phản ảnh góc khuất, những mất mát của cuộc chiến. Và để cấm tiệt những tác phẩm viết về nỗi riêng tư của con ngưòi trong chiến tranh thì ngưòi ta lại giở lại biện pháp quen thuộc để tẩy chay những tác phẩm phản ảnh chân thực về chiến tranh là gán cho nó rơi vào”chủ nghĩa xét lại”. Bây giờ cuộc chiến đã lùi xa. Thấy sự phê phán chiến tranh là sự phê phán chung của thế giới nên người ta lại hùa vào móc những tác phẩm ít nhiều nói về mặt trái của chiến tranh để ca ngợi và coi đó như một niềm tự hào của nền văn chương èo uột, luôn luôn bị định hứơng một cách chủ quan của nứơc ta kiểu như “nỗi buồn chiến tranh”, “bến không chồng “ …
             Biểu dương tác phẩm về chiến tranh trong giai đoạn mà thực tế xã hội nứơc ta đang cần văn chương phản ảnh sự thật nóng bỏng nhất cũng là một thủ pháp của đường lối quen thuộc tronmg quản lý văn chương quốc doanh ở nứơc ta. Một phần sau hơn một nửa thế kỉ quản lý văn chương  theo hướng “phục vụ chính trị” đã làm cho mỗi nhà văn Việt nam tự xây cho mình một chuồng vàng nhỏ bé nhốt mình tránh xa những điều cấm kị cộng thêm với một tổ chức quản lý văn chương nghiệt ngã và quá thạo trong việc hướng các nhà văn nên nền văn chương nứơc ta chỉ đẻ ra những tác phẩm cổ động, hô hào, hoặc những tác phẩm nhàn nhạt trữ tình. Viết về chiến tranh thì chỉ cho phép viết đôi chút mặt trái của nó, còn truy tận cùng, đến tận nguồn mọi thứ đổ vỡ, đau khổ thì hay đến mấy cũng xếp xó lại. Kịch tuyệt vời mấy cũng không được dựng. Bản thảo tiểu thuyết, truyện ngắn hay bao nhiêu cũng thiếu gì lý do từ chối không in. Còn viết về cụôc sống đương đại thì với một sự đổi mới nửa vời, trong giới hạn cho phép tàm tạm chấp nhận các tác phẩm có giọng điệu đanh đá để lật đổ các thần tượng xa vời trong quá khứ kiểu như Nguyễn Huy Thiệp. Còn lý tưởng nhất là các nhà văn hãy cho ra đời những tác phẩm cấn cá một chút, thơ thơ một chút, dí dỏm một chút. Còn những tác phẩm đề cập đến những vấn đề cốt lõi, bản chất của cuộc sống hôm nay với sự phê phán dữ dội bằng một bút pháp nghệ thuật cao thì hãy đợi đấy. Không phải ngẫu nhiên đến hơn ba mươi năm nay các tác phẩm hài –phương tiện phê phán đắc hiệu trong văn học xứ ta mất tăm. Viết đến đây tôi chợt nhớ đến thể loại kịch. Một thể loại văn học khó nhất rất kén người viết vì ở đó cần một cái nhìn sắc sảo để đi vào cốt lõi của cuộc sống, để trên sân khấu thể hiện rõ nhất xung đột xã hội, con ngưòi từ đó bật ra những dự báo, thông điệp. Đáng buồn thay, sau những vở kịch mô tả đích đáng hiện thực đa dạng, phong phú cùng sự phê bình xã hội mạnh mẽ của Lưu Quang Vũ gắn với thời kì đầu đổi mới thì giờ đây sân khấu Việt nam cả hai miền đang ngắc ngoải. Miền Bắc thì toàn những vở nửa vời (Không nhà hát nào dám dựng một vở đúng nghĩa là chính kịch vì những kịch bản này chết yểu ngay từ khi lãnh đạo nhà hát đánh hơi thấy sự dữ dội của nó). Còn kịch miền nam thì đầy dẫy những ma mãnh, đồng tính , moi lại chuyện cũ để phục vụ lớp khán giả vào rạp cắn hạt hướng dương và quắp chân lên nhau.
           Còn sách Việt Nam ra nứơc ngoài thì trừ một số sách do nứơc ngoài tự tìm, tự dịch còn theo con đường chính thống thì cũng chỉ đưa ra những tác phẩm có đôi chút chiến tranh, thơ thơ một tý, gay cấn nhẹ nhàng…
       Nhưng cũng cần công nhận bản lĩnh của không ít nhà văn xứ ta . Bên cạnh tỉ lệ nhỏ vài nhà nọ nhà kia có đôi chút ngoại ngữ, ngấm ngoại  đã vội quên hồn dân tộc chạy theo cách viết, cách nghĩ nước ngoài cho ra những tác phẩm hổ lốn còn đa số các nhà văn thực tài yêu đất nứơc, thương dân tộc với thiên chức của cây bút chân chính, mặc dù liên tục bị kiềm toả từ chính mình, sự quản lý thép thông qua sự nhồi nhét những nguyên lý nọ kia cùng một bộ máy ngầm để kiểm duyệt nhưng đôi khi giữa sự bịt bùng của vòng kiềm toả gắt gao nền văn học nứơc ta cùng le lói cho ra những tác phẩm xứng đáng được gọi là tác phẩm để đời mà nếu được giới thiệu ra nứơc ngoài thì ít nhiều cũng làm vinh dự cho nền văn chương Việt nam. Những cuốn tiểu thuyết về nghệ thuật cũng không thua kém gì thiên hạ đã viết về giai cấp nông dân Việt nam bị làm dụng, lợi dụng như thế nào. Về sự cắt nghĩa nguồn gốc một xã hội Việt nam đương đại vì sao lại loạn xà ngầu lên thế . Về những làng quê Việt Nam bị phá bung vì các sự cố lịch sử ra sao ..VV và vv.chỉ tiếc nó đã ra đời nhưng vào thời bao cấp tàn khốc ngưòi ta đốt đi, thiêu huỷ một cách tàn bạo, còn trong thời đổi mới người ta khôn ngoan dìm đi trong sự im lặng đáng ngờ.

Vài lời kết luận 
       Xét về mặt bản chất chính thể Trung Quốc cũng hao hao chính thể Việt nam – Hai nứơc hiếm hoi còn lại do đảng cộng sản cầm quyền . Tất nhiên những sách hay nhất của Mạc Ngôn các nhà cầm quyền Trung Quốc cũng không mấy thích thú giống như nhà cầm quyền Liên xô ngày trứơc cấm phổ biến sách của Pác tê nắc và Jôn nít sưn như thế nào. Trong thời Đại Cách mạng Văn hoá một thứ nội chiến khủng khiếp trước đây .Mặc dù không ưa gì Đặng Tiểu Bình những ngưòi ta cũng chỉ hành hạ ông này lên bờ xuống ruộng với mục tiêu cho ông này biết nghe lời nhưng vẫn để ông này sống vì biết tài năng phục quốc sau sự đổ nát và tàn phá của đại cách mạng văn hoá. Trường hợp của Mạc Ngôn cũng vậy. Mạc Ngôn bị nhà cầm quyền TQ không ưa vì biết nhà văn tài năng là nhà văn nhìn thấy thấu đáo mọi ngóc ngách của xã hội. Sách của Mạc Ngôn nhà cầm quyền cũng chẳng ưa vì nó nói đúng tim đen của họ. Nhưng người ta bằng mọi cách để sách Mạc Ngôn được khẳng định và được đọc nhất là ở ngoài nứơc… Và Mạc Ngôn với tài năng của mình đã đoạt giải Nô ben. Sự kiện này khiến nhà cầm quyền TQ liền một lúc trúng hai mũi tên. Với sự kiện này nền văn hoá Trung quốc vẫn được khẳng định là nền văn hoá lớn trên thế giới và nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn được tiếng trân trọng các nhà văn hoá tài năng .
         Còn ở nứơc ta không biết bao giờ các nhà văn xứ ta mới có các tác phẩm lớn, và kể cả khi nó đã có rồi đấy thì bao giờ thế giới mới biết được các tác phẩm lớn một cách đích thực ấy.
          Hiện thực nứơc ta gần một thế kỉ này đã có đầy đủ mọi tố chất , thăng trầm để làm nền các tác phẩm văn chương lớn. Tác động làm sao để các nhà văn có tác phẩm lớn ra đời, và các tác phẩm lớn được giới thiệu ra quốc tế  làm vẻ vang dân tộc này lại thuộc về các nhà cầm quyền chứ không phải các nhà văn. Thưa đông đảo công chúng, nhân dân .
                                            Cuối thu Nhâm Thìn. Hà nội ngày cuội giời
                                                         Nguyễn Hiếu