Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Một tráng ca kì lạ

Nguyễn Anh Tuấn
Thứ hai ngày 12 tháng 11 năm 2012 6:40 AM

(Đọc trường ca "Sông Cái Mỉm Cười" của Nguyễn Nguyên Bảy)

Một chiều mưa phùn gió bấc, tôi qua cầu Long Biên, dừng xe ngắm nhìn dòng sông Hồng trơ cạn... Đây là dòng sông đỏ lựng phù sa mà biết bao nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà điện ảnh… đã tìm thấy nguồn cảm hứng nghệ thuật bất tận cho mình! Và tôi bỗng nghĩ đến cái Dự án "Thành phố Sông Hồng"- một công cuộc chỉnh trang lại đê điều sông Hồng lớn nhất trong lịch sử kể từ khi Hà Nội và châu thổ sông Hồng có đê ngăn lũ; và ít ai biết được rằng: Dự án đó lại xuất phát từ tình yêu sông Hồng và ý tưởng của một hoạ sĩ- hoạ sĩ Vũ Văn Thơ... Nhưng Dự án này khi triển khai, với nhiều nhà khoa học có lương tâm thì lại nổi cộm khá nhiều vấn đề hệ trọng. Nhà sử học Lê Văn Lan đã lên tiếng cảnh báo: Dự án trên “không hiểu vô tình hay là hữu tình…về mặt lịch sử, văn hoá gắn liền với Thủ đô Hà Nội thì chẳng thấy ai đề cập đến!” Tệ hơn, như GS Lê Văn Lan đã vạch ra: Dự án còn định “cấy” một khu đô thị Hàn Quốc vào, “như thế khác nào đánh mất mình và Hà Nội sẽ không còn nữa!” Và ông đã đặt câu hỏi hộ nhiều người: “Hôm nay đây, chúng ta đều biết nước sông Hồng đang dần bị cạn kiệt, thì lịch sử sông Hồng, là cội nguồn của nhiều dòng đời liệu có bị cạn theo? Trách nhiệm này thế hệ của chúng ta có phải trả lời trước lịch sử hay không? ”(Dòng chảy sông Hồng sẽ về đâu?- VN Trẻ)...Trong những ý nghĩ miên man như thế, tôi vụt nhớ tới hai câu "Sông Cái khi vơi khi đầy/ Sông Cái chẳng bao giờ cạn được" cùng bản trường ca "Sông Cái mỉm cười" của nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy - một người Hà Nội đau đáu nhớ thương Hà Nội đang sống xa Hà Nội cả hàng ngàn cây số...

1. Không phải ngẫu nhiên mà NNB dùng trường ca "Sông Cái Mỉm Cười" để kết cho phần thơ "Kinh thành Cổ tích"*. Và trong thế giới của Kinh thành Cổ tích, Sông Cái đương nhiên cũng phải là dòng sông Cổ tích! Quả là dòng sông Cái, hay sông Mẹ mang trong nó và hai bên bờ biết bao huyền tích say đắm lòng người, bao linh khí của thiên thần và nhân thần hiển hiện trong các thành hoàng làng, bao chiến tích của những con người chinh phục Châu thổ và chế ngự hồ tinh, mộc tinh, thuồng luồng, cá sấu, cùng sự tưởng tượng của người dân châu thổ về sức mạnh ma quái của dòng sông qua Thủy Tề, Long Vương, Hà Bá, Bạch Xà, và đôi khi còn lập đền thờ các lực lượng siêu nhiên ấy ở bên sông để mong kìm bớt cơn giận dữ khủng khiếp của nước lũ! Với tiêu đề SÔNG CÁI..., nhà thơ NNB đột ngột mở ra trước người đọc cái thế giới tinh thần, cái hệ thống thi liệu quen thuộc của anh - thông qua một dòng sông mà những ai từng mang huyết mạch sông Mẹ của mấy ngàn năm nước Việt trong người, mang nỗi niềm cha ông vạn cổ lại không thấy lòng rưng rưng…? Đó là dòng sông mà nhà thơ Võ Văn Trực quê gốc ở miền Trung, khi xuôi bè từ miền Phong Châu đất Tổ về miền đất bãi đã có một cảm giác thật đặc biệt, ông kể lại: “cảm giác mình đang lần theo dấu chân ông cha đi về phương Đông ánh sáng”, và ông đã say sưa thốt lên: “ Đây là con sông quê chung cho tất cả dòng giống Lạc Việt!” (Thượng nguồn và Châu thổ- Tập bút ký, Nxb Thanh niên, 2003)

Nhưng đây lại là SÔNG CÁI MỈM CƯỜI ! Sao lại Mỉm Cười? Trong ký ức của nhiều người dân châu thổ Bắc Bộ vẫn còn in đậm hình ảnh những ngôi nhà đổ sụp, từng cụm làng xóm trôi dạt, những gốc cổ thụ bật gốc cuốn đi trong cơn xoáy lũ, những bàn tay phụ nữ con trẻ chới với trong dòng nước đục ngầu gầm réo…Tiếng trống ngũ liên thúc hối hả, những ngọn đuốc đỏ rừng rực từng đoạn sông, người dân châu thổ mồ hôi chan nước mắt nắm tay nhau lấy thân mình làm bức tường chắn sóng… Đồng lúa ruộng màu bị cướp trắng trước những cặp mắt ưá lệ đau đớn xót xa… Dòng sông tác giả hình dung nó Mỉm Cười cũng là dòng sông mà vị Ủy viên thông tấn Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp Pierre Gouru đã nhận định gần 100 năm trước: “là con sông chủ yếu của châu thổ Bắc Kỳ; chính nó đã tạo ra châu thổ bằng phù sa và chính nó luôn luôn đe doạ châu thổ khi tràn ngập. Sông Hồng chảy qua châu thổ như một kẻ xa lạ đáng sợ chứ không phải như một ngưòi cộng sự hữu ích; đó là do sự hung dữ và những trận lụt lớn của nó.” ( Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ- Nghiên cứu địa lý nhân văn. Bản dịch từ tiếng Pháp, Nxb Trẻ, 2003).

Thế sao Sông Cái Mỉm cười? Chẳng phải chính tác giả trong trường ca không chỉ một lần phải miêu tả nỗi lo sợ của dân khi "Sông Cái nước to xuôi về xuôi rất vội" đó sao? Tác giả chơi chữ, hay có ẩn ý gì?

Phác qua những miêu tả trên để thấy rằng: khi đặt tên cho bản trường ca này là SÔNG CÁI MỈM CƯỜI, NNB đã vô tình đặt ra một thử thách rất lớn đối với bản lĩnh của một nhà thơ. Anh dựng lên một bệ phóng của thi liệu & thi cảm cho bản trường ca trên nền lâu đài ký ức bi tráng về Sông Mẹ, và từ đây, liệu anh có thể đương nổi với sức ám ảnh ghê gớm của ký ức một Dân tộc? Anh viết về người Cha đã khuất để song hành, đăng đối, hòa lẫn với ký ức tràn đầy về Sông Mẹ đã trở thành biểu tượng của hành trình Dân tộc, liệu anh có thể vượt qua - ít nhất là với những gì anh đã đạt được suốt chặng đường của "Kinh thành Cổ tích", và có thể đem lại điều gì mới mẻ cho dòng sông trường ca Việt hiện đại? Với quan niệm mang tính tuyên ngôn về thơ như sau, anh có làm người đọc anh phải thất vọng khi tiếp cận với bản trường ca hiếm hoi của "Núi Thơ" anh: "Thơ cao quí như tên gọi của nó. Sự cao quí thần linh. Sự cao quí bất tử. Sự cao quí vốn chỉ trao cho những con người có đầy đủ tình yêu và nghị lực gieo trồng và thu hoạch nó. Sinh ra đất trời bèn sinh ra bể/ Có bể trời bèn sinh sông/ Chẳng để buồn sông trời bèn sinh cá/ Giận lũ trời bèn sinh rừng/ Có rừng trời bèn sinh cỏ/ Sinh cỏ trời bèn sinh voi/ Lúa trời người dưỡng thành lúa nước/ Sinh ra lúa người sinh ra nhà/ Sinh ra nhà người sinh ra thuyền/ Sinh ra thuyền người cao hứng sinh thơ/ Thuyền thơ chở đầy trăng thơ..." (nguyennguyenbay.com). Sở dĩ tôi trích đoạn này của NNB, là vì ở đó cũng gợi đến cả chặng đường đầy hiểm nguy bất trắc của cư dân Việt cổ đi từ núi cao xuống đồng bằng theo phù sa của dòng sông Cái - hình tượng thơ quan trọng và xuyên suốt ở trường ca. Khi nhà thơ nói về "Lúa Trời, Lúa Ma, Lúa Nước, Thuyền độc mộc", có thể anh không cần biết tới những khảo cứu từ thư tịch cổ, song dường như có một nguồn cảm hứng "thần linh" may mắn hỗ trợ khiến anh có thể biến chúng thành thi liệu chứa đựng thông điệp mới mẻ để gia nhập vào cuộc đời lớn lao của Dòng Sông Mẹ mà trên đó "Thuyền thơ chở đầy trăng thơ..." Có điều lúc này trên Thuyền thơ - con thuyền Số phận, phải chăng nhà thơ mặc áo đại lễ truyền thống trang trọng đọc sớ khấn cha anh bên dòng sông huyền thoại mờ mịt sương, khói ?... Những lời khấn bằng thơ của “Trường ca Lễ Tạ Cha Ông trước thềm Năm Mới” này có điều đặc biệt: đó chỉ là những lời nói thường ngày, mộc mạc chân cảm, giãi bày với một đối tượng cụ thể, trong đó cảm xúc được ghìm nén, và dưới sự chứng giám của dòng sông anh linh chúng bỗng mang một sắc thái thật khác lạ- vừa là đời thường được chắt lọc, gần gũi thân thương vô hạn, lại vừa mang ý nghĩa biểu tượng về sự sống Tuần hoàn, Nhân Quả theo triết lý Phật giáo... Bởi chúng xuất phát từ tâm thế của người thơ "Mắt nhìn đâu cũng thấy Mỵ Nương/ Xanh mướt cỏ bờ đê sông Cái". Bởi đây cũng là nơi "Trương Chi hát lời giã bạn" quen thuộc (Tự họa tuổi thơ), nơi mà anh đã nhiều lần "Bay lên non cổ tích bái tình/ Thần dạy trai làng trồng lúa/ Nương dạy thôn nữ tầm tang", nơi có những con người "Xác thân hóa thổ thành đê/ Ngăn cuồng thủy tặc/ Linh thiêng non Tản tình về..." (Bái tình), nơi mà Thánh Thơ họ Cao trước khi hòa máu vào sông đã "nghiêng hồn xin dòng sông Cái/ Cho thân xác Quát trở về sông" để "Mẹ sông ôm Quát vào lòng" (Thánh Thơ)... Những lời đọc "sớ thơ" khi kể lể chân chất khi ngọt ngào dân ca, khi trầm buồn nghẹn ngào khi rắn rỏi bi hùng, để tới khi hồn vong tràn ngập, "Sông hồn bắt đầu sôi/ Khí hồn bắt đầu thăng", hồn thiêng sông núi và biết bao kiếp phận người từng hóa thân vào Sông Cái - trong đó có cha anh giờ chợt hiện cả về trong thơ anh với dáng vẻ của các nhiên thần hùng vĩ, "chói lói" - lúc đó "Sông cái mỉm cười" đã bay lên, ùa ngập cảm xúc bi tráng vào lòng người đọc.

2. “Sông Cái” đã trở thành một hình tượng nghệ thuật vừa cụ thể vừa khái quát chảy suốt khúc tráng ca, thấp thoáng ẩn hiện những khuôn mặt người thân yêu của nhà thơ, những kỷ niệm đau đáu suốt đời người và xuất hiện trong nhiều cảnh ngộ đan xen thực ảo... Chúng ta hãy tiếp xúc trực tiếp với văn bản trường ca.

Đoạn mở đầu, hãy hình dung là một trường đoạn phim êm ả như lá cỏ mật, như gió ban mai, như sóng lan nhè nhẹ giữa sông trăng miêu tả dòng sông đỏ lặng lờ, trên nền tiếng đàn bầu thánh thót, nhà thơ chậm rãi học theo cách "Sông mở lòng trang nghiêm", trước hết là kể lại cho người vợ nghe chuyện mình bắt đầu hành lễ bằng những động tác kính cẩn nhẹ nhàng ra sao:

Anh thả tro bụi cha vào sông/ Xin mát mẻ hồn/ Hồn cười trong nước/Anh hái những lá cỏ mật/ Thả xuống sông làm thuyền

Cũng bắt đầu từ đây là sự giao cảm thiêng liêng của người thơ - người con có hiếu đối với Hồn, và anh không che dấu rằng nỗi nhớ thương của mình tới độ "Thương nhớ lòa tròng"; có điều, bên những lá cỏ mật thi vị và những thổ đất kè đê mộc mạc ngàn đời cùng "tiễn cha về cực lạc", dù nước mắt nhạt nhòa, nhà thơ cũng cảm thấy:

Anh nghe thoáng một triền gió ngát/ Sông Cái mỉm cười/ Từng đàn cỏ mật chèo khua...

Như vậy là, âm hưởng chính, chủ đề chính của bản trường ca đã được xác định ngay từ đầu qua những hình ảnh Thật - Mộng đan xen xuất phát từ tâm tưởng và được thực tại chứng nghiệm đó. Và nó cần thiết để dẫn sang "trường đoạn phim" tiếp theo, phát triển trọn vẹn chủ đề, làm tròn âm hưởng chính. Đoạn này hoàn toàn là hồi tưởng- nhưng đặc biệt là nó chồng trong trí tưởng tượng cùng ước nguyện cuối cùng của người cha khi ông đã "gần đất xa trời" và đang tìm cách truyền lại những "công án" đời mình cho đứa cháu nội thơ dại:

Áp thấp gió mưa cờ xí/ Quân hồn ngập trời nước lửa/ Chiến thuyền phủ kín sông trăng/ Cha thiêm thiếp nằm nghe bão nổi/ Qua lời kể của thằng cháu nội...

Trong thơ ca xưa nay, không có nhiều sự miêu tả thấm thía rung động như đoạn này về sự giao thoa tâm hồn, sự liên kết tâm linh giữa hai thế hệ ông - cháu:

Anh như thấy nụ môi cha nở mỏng /Bay sang môi con anh đỏ chót mơ hồ/ Thành ròn cười khanh khách/ Anh linh cảm trời đang gần gang tấc/ Trong bước chân cha

Và đất trong mắt cha/ Thăm thăm hun hút/ Anh như nghe âm thanh gọi nấc/ Con anh quì áp mặt ông/ Hai ông cháu thì thầm/ Điều sau này anh mới biết/ Ông cho cháu nốt nụ cười/ Trước khi ra bến đò sông Cái/ Ru sông tan bão nắng hoa...

Có lẽ, phải bằng thủ pháp của một loại điện ảnh siêu thực như trên mới có thể diễn tả nổi, diễn tả hết sự linh thiêng trong giờ phút Tử biệt Sinh ly đó, cùng nỗi đau quặn thắt của người con giờ phút "âm dương hai cõi". Cái hình ảnh thật thơ mộng "Hoa từng cánh se khô" trên môi người ông bay sang môi cháu, và cái hình ảnh đầy kịch tính "Hai ông cháu thì thầm/ Điều sau này anh mới biết" đã làm nền cho sức nặng của mấy câu thơ vượt ra khỏi sự miêu tả thông thường: "Ông cho cháu nốt nụ cười/ Trước khi ra bến đò sông Cái/ Ru sông tan bão nắng hoa..." Tới đây thì người đọc đã bắt đầu láng máng hiểu ra phần nào: vì sao bản trường ca mang tên "Sông Cái mỉm cười".

Rồi từ cái buổi chia ly không bao giờ có thể quên đó, nhà thơ dẫn người đọc vào cuộc sống ấm áp bình dị của một gia đình bên dòng sông Cái- sự quan tâm chăm sóc của con dâu với bố chồng, của con với cha, của vợ với chồng, chồng với vợ, cháu với ông bà... Có rất nhiều chi tiết chân thực cảm động được kể lại trong tâm thế "Như chỉ mới trưa hôm qua" hoặc "tối hôm qua". Nhà thơ thực sự sống trong tâm trạng của người cha mà "Lần đầu tiên trong đời anh thấy cha khóc", đặt mình trong tâm trạng của mẹ anh khi trò chuyện với chồng, cả cái "Giỗi già hờn vợ" của cha anh, để có thể hiểu được "Tay gầy tay khô cười ra nước mắt", để nhớ lại như in từng lời dặn dò khi "Cha gọi thân yêu quây lại bên giường." Ấn tượng sâu đậm nhất của nhà thơ là mối tình của cha mẹ anh - xa hơn là của ông bà anh:

Trăng xanh cành bưởi/ Đôi bạn tình không tuổi/ Uống trà thoại yêu

Nhưng dù tâm trạng có "hiu hiu đắng chát" khi kể lại cuộc sống gia đình, nhà thơ cũng nhìn ra được cái số phận chung của biết bao gia đình Việt bên dòng sông Cái, mà ở đó có những người như cha anh - một người "chỉ thèm củ khoai năm Dậu" nhưng lại tìm ra được triết lý sống sâu sắc cho nhiều thế hệ: “Nước non còn bởi còn người/ Bể mặn bởi nước mắt đời yêu nhau”; đồng thời cũng là người "từng lội qua sông như một con kình" mang bóng dáng của chàng dũng sĩ diệt thủy quái tự thuở xưa bên dòng sông mà lịch sử và huyền thoại, niềm vui và sự lo âu, hạnh phúc và bất hạnh, cái sống và cái chết trộn lẫn, nhưng mọi sắc thái của phong tục dường vẫn nguyên vẹn qua thời gian:

Áo đỏ áo xanh trăm sắc ngàn mầu/ Rồng rắn lên đê/ Sông Cái nước to/ Xuôi về xuôi rất vội/ Xuôi theo cả sắc mầu chói lói/ Bóng đoàn người rồng rắn trên đê

Trong trường ca, cuộc đời Ông Bà, Cha Mẹ với mọi buồn vui sướng khổ đều gắn với dòng sông Cái... Nhưng nhà thơ không chỉ dừng lại ở những chi tiết tả thực, anh đã theo "Bước người xưa xuống biển mò trai lên rừng săn thú" đưa người đọc về "nơi chò chỉ... tre trúc ngẩng cao đầu" ( Chứng tích chiến tranh)- nghĩa là "huyền thoại hóa", khái quát hóa tình nghĩa vợ chồng của ông bà, cha mẹ anh thành số phận chung của những lứa đôi trong lịch sử hàng ngàn năm qua nơi châu thổ sông Hồng:

Tôi nhìn thấy trên dòng sông Cái/Bao nhiêu là cầu lụa/Trên cầu xoan ghẹo giao duyên/...Chàng lực điền mồ hôi mật ứa/Tưới mát cánh đồng xanhNgày mình theo tôi buôn bè/Vào chợ tiền đầy tay nải/Lại phụng lại công múa vái/Mắt mòn nhìn gái một con...

Cuộc sống tình nghĩa trăm năm ấy, với những bi kịch có thật, rất đời thường, song ở đây còn lấp lánh màu sắc cổ tích thế sự: " Đồng tiền gieo họa/ Đồng tiền gieo buồn." Đến khi "đôi mình tỉnh ra/ Quẳng tiền xuống ghềnh sông Cái" thì cuộc sống mới yên bình trở lại:

Mình lại là mình lực điền/Tôi lại là tôi trồng dâu, ươm kén/...Hoa vườn nhà bên thơm ngát/Một vùng sông gió thiên thai

Sau khi đã huyền thoại hóa cuộc đời ông bà, cha mẹ trong mạch sống dân gian ngàn đời, nhà thơ trở lại một nỗi đau có thực của người con từng khiến anh"nước mắt tràn đê" bởi xót xa ân hận:

Cha cũng là người bằng xương bằng thịt /Nào phải thánh thần chi/Mà anh để cha ăn mây uống gió/Nuôi anh một đời vô tích sự/Anh bật khóc thành tiếng /Nước mắt tràn đê/Chảy xuống sông

Nhưng hóa ra đó chỉ là cái cớ để nhà thơ lắng sâu hơn vào những sự thật, những điều cao cả lớn hơn phận số của một cá nhân cụ thể:

Lạ kỳ chưa/ Sông Cái mỉm cười/ Trôi đi những thuyền cỏ mật/ Cha đứng trên thuyền/ Thuyền cười trên sóng nhấp nhô/ Cha chầm chậm hóa thân vào sông Cái...

3. Gắn chặt cuộc đời cha mình với dòng sông Cái, nhà thơ đã có thể rút ra được bao suy ngẫm quý về nhân tình thế thái, về lẽ sống. Và Sông Cái trở nên thiêng liêng hơn trong tâm tưởng cháu con, bởi có người cha, người ông đã “hóa thân vào Sông Cái”, hòa vào phù sa để làm nên những bãi mật cho đời trong kiếp luân hồi không hiếm khổ đau song cũng tràn đầy hy vọng, bởi tình người đã "tuần hoàn ân nghĩa" trong "Bể đời thuyền Bát Nhã/ Tượng hình làng quê sông núi" (Khải ca đài). Người cha thanh thản về với cội nguồn khi đã "thương nặng lắng bùn nhập thế" (Tinh túy ngộ duyên) bởi hiểu hơn ai hết qui luật của tạo hóa, bởi có người con chí hiếu. “Sông Cái mỉm cười” bởi có Nụ Cười bao dung thấm đượm sự từng trải và tình thương cao cả. Sông Cái không thể chết, không bao giờ chết bởi nó cần tồn tại để chứng kiến những con người của các thế hệ kế tiếp nhau dũng cảm sống trong bất kỳ cảnh ngộ nào, và chân thành hồn hậu biết bao trong tình yêu thương: “Sông luân hồi miệt mải/ Cho phù sa muôn đời/ Chẳng chút chi đòi lại/ Chỉ đòi còn mãi dòng sông/ Sóng lòng phụ tử ngân nga…” Bản tráng ca có sức lay động lòng người bởi vừa khái quát được bản chất của sự Tồn tại, vừa gợi ra cái khát vọng cháy lòng phải vươn tới bản chất ấy trong mỗi người, bằng hình tượng thơ giàu xúc cảm xoắn xuýt đời sống và tình nghĩa nằm sâu trong mạch chữ. Có thể nói "Sông Cái mỉm cười" tập trung rõ nét nhất đặc trưng bút pháp của NNB: liên kết các tổ hợp hình ảnh trong một trường liên tưởng có xu hướng "lạ hóa", "huyền thoại hóa", mà chất keo kết dính chúng không phải là sự thông minh, là kỹ thuật, mà là nỗi xót xa thương cảm đằm sâu- đó cũng là "phương thức thể hiện rất nhạy cảm với nỗi khổ đau" mà tôi đã từng đề cập trong bài "Thử mở một cánh cửa vào thế giới thơ NNB" (vanvn.net).

Tới đoạn sát kết, ta hãy chú ý một tâm lý kỳ lạ: sự nhớ thương sâu nặng với cha khiến nhà thơ đột nhiên có cảm nghĩ cha hồi sinh, và đó cũng là cơ sở tâm lý nghệ thuật cho việc "đúc" lại tất cả những nỗi đau buồn cay đắng của biết bao kiếp người (trong đó có bốn thế hệ gia đình nhà thơ trên con thuyền Đời xuôi theo dòng chảy và số phận của sông Mẹ) để biến thành những biểu tượng mới của Sự Sống được thăng hoa trong Tình thương và Ân nghĩa:

Sông chảy qua làng/Thuyền cỏ mật đậu xanh mặt bến/Cha hỏi thăm đoàn người gồng gánh phù sa/Có ai là con cháu/Nghe cha hỏi choáng choàng anh gọi/Chỉ thấy môi sông Cái hồng cười/Đón gạo thơm và muối trắng/Con trai anh rắc xuống như hoa/Và dòng sông nắng trôi qua...

Khi viết những dòng này, nhà thơ đã trải qua bao năm tháng cực nhọc, tủi hờn, đã sống qua bao "Bài ru trằn trọc", đã ngộ ra "Hoa cỏ nào hoa cỏ chẳng nên thơ/ Âm dương nào không cười khóc" (Tinh túy ngộ duyên). Tới đây, "dòng sông nắng" dẫn người đọc vào kết bản trường ca:

Hai cha con lững thững về làng

Mỗi người mang theo một dòng sông Cái

Trong anh sông Cái mỉm cười

Và anh tin lòng con anh

Sông Cái cũng mỉm cười...

Nếu hình dung đây là một trường đoạn phim thì sẽ thấy: máy quay ở trên cao, thu hình hai cha con đi chầm chậm trong ánh sáng ngược tạo thành hai bóng silhouette bé nhỏ nhưng không hề tạo cảm giác cô đơn, bởi có muôn vàn ánh phản chiếu lung linh của dòng sông đầy cỏ mật và hoa nắng làm chỗ dựa tin cậy cho họ; rồi tiếp đến hai cận cảnh cha - con đang đi, (máy quay đi theo), lưu lại nụ cười trên môi từng người, sau cùng lại rút ra toàn cảnh dòng sông... Ở đoạn "kết phim" giàu ý nghĩa này, bản giao hưởng sẽ dào dạt dâng lên - bản giao hưởng về dòng sông chất chứa sức mạnh không chỉ của bản thân nó mà còn là sức mạnh của con người vừa chinh phục vừa nương nhờ vào nó theo cách "Mỗi người mang theo một dòng sông Cái" để vượt qua mọi giông tố của số phận cá nhân cũng như số phận của một Dân tộc. Bằng hai câu thơ cuối: "Và anh tin lòng con anh/ Sông Cái cũng mỉm cười", nhà thơ một lần nữa lặp lại cái ấn tượng ám ảnh suốt bản trường ca để hoàn chỉnh cái hình tượng thơ nhất quán: "Sông Cái Mỉm Cười". Nó chính là Bản tráng ca của Tình Thương, của khát vọng Sống sao cho xứng đáng là những người con của Sông Mẹ vĩ đại...

________________________________

* Thơ Nguyễn Nguyên Bảy I, Nxb Văn học- 2011

Sông Hồng từ xa xưa vốn mang tên Sông Cái, chắc vì vậy mà người châu Âu hồi thế kỷ 19 gọi là Sông Koi - có nghĩa là Sông Mẹ. Tên sông Hồng là do người Pháp đặt: Fleuve Rouge - Sông Đỏ, còn tên chữ Hán là Nhị Hà.

 Hà Nội, 2011-2012

Nguyễn Anh Tuấn

Bài tham gia sách Văn bạn Văn 1/ Nguyễn Anh Tuấn

THỬ MỞ MỘT CÁNH CỬA VÀO THẾ GIỚI THƠ

NGUYỄN NGUYÊN BẢY *

Nguyễn Anh Tuấn

Trong một bài thơ, NNB hé lộ cho người đọc thơ biết lai lịch đời anh cùng xuất xứ những vần thơ đầu tiên của anh:

Nơi ấy, các cô gái đều là tiên nữ

Áo quần mớ bẩy, mớ ba

Yêu nhau bắc cầu giải yếm

...Nơi ấy các bà tiên dạy tối biết khóc

Các bà tiên dạy tôi biết cười

...Nơi ấy là kinh thành cổ tích

Nơi ấy là đời tôi…

Và trong một bài viết ở trang mạng Nguyennguyenbay.com, chúng ta đọc được những dòng sau:

"Tôi là một nghiệp dư thơ. Một nghiệp dư say mê thơ điên cuồng, chép chép ghi ghi và chôn ghi ghi chép chép ấy vào mộ huyệt của im lặng, chỉ thỉnh thoảng, không cưỡng nổi điên khùng, nửa đêm thức giấc, ngửa mặt nhìn trời đọc thơ gửi mây, tặng gió."

Nhưng, những dòng tự bạch bằng thơ đầy thi vị lẫn văn xuôi trần trụi trên chỉ giúp ta có thêm mối đồng cảm ban đầu khi đọc thơ NNB, chứ tuyệt nhiên không giúp ta mở thêm một cánh cửa để dễ dàng bước vào thế giới thơ anh! ( Xin được dùng lại khái niệm" Thế giới thơ" mà GS Hoàng Như Mai đã viết về thơ NNB).

1. Ta có cảm tưởng, thơ NNB giống như một cuốn kinh đồ sộ tập hợp biết bao suy tưởng cảm nhận của người thơ về đời sống, về cội nguồn của đời sống và của thi ca... Song cuốn kinh ấy lại tựa ma trận của lòng người mà bản thân người làm thơ cũng phải thấy ngợp, đôi lúc có cảm giác chết chìm, có điều đã luôn phải vùng quẫy để thoát ra khỏi cơn lũ ngôn từ và ấn tượng để quan sát, để chiêm nghiệm; và trong khi quan sát chiêm nghiệm đời sống thì quan sát chiêm nghiệm ngay chính những ấn tượng, những kinh nghiệm sống cùng quan niệm xử thế của mình, để rồi từ đó, "Thơ đã ra đời như những liều thuốc giải độc trí tuệ, vì nếu thơ không được sinh ra hẳn tôi đã mắc chứng điên và bị buộc phải vào nhà thương Thường Tín. Thơ đã ra đời như một thách đố tôi, một tự tôn tôi, một khẳng định tôi, một kiêu hãnh tôi đối nghịch với mời gọi của cơm áo và danh giá..."- như chính tác giả tự bạch. Như vậy đối với NNB, làm thơ chính là một cách ứng xử chủ yếu với đời, một cách bảo vệ phẩm giá đặc biệt, một vũ khí hữu hiệu chống lại sự đểu giả, là một lý do và một phương thức chính để tồn tại...

Nguyễn Nguyên Bảy khiêm nhường tự nhận là "người thơ nghiệp dư", nhưng thực ra đó là một tác giả rất có ý thức về sự nghiệp thơ ca của mình, và rất chuyên nghiệp. Có điều, anh đã chọn cho mình con đường thực chông gai.

Trong những năm tháng mà âm thanh cao vút của những bài hát cùng tính chất sử thi và giao hưởng hùng tráng của những "Sư đoàn", "Đường tới thành phố", "Tình yêu và Báo động", "Lửa đèn", "Mặt đường khát vọng", "Mặt trời trong lòng đất"(2)... là âm hưởng chủ đạo cho tinh thần xã hội (và đặc biệt cần thiết) thì cái bè trầm "âm âm lời Chinh Phụ lời Kiều" của thơ NNB chắc chắn không thể được coi trọng nếu không muốn nói là bị hắt hủi, bị truy bức ra khỏi đời sống cộng đồng! Lại còn "Tình yêu mượn cánh thánh thần chở che" nữa, rõ là "ngạo mạn" và "xấc xược"! Mặc dù anh tự nhận đứng trong hàng ngũ: "Chúng tôi đang viết những tráng ca/ Những tráng ca bằng gươm bằng súng"- nhưng riêng anh thì lại không viết tráng ca mà lại viết thơ của đời thường, viết tình ca thủ thỉ: "Thơ run rẩy những lời có cánh/ Khúc yêu mình trộn khúc thương con"- "Lời ru không vui không buồn/ Thơ hạ cánh đậu nghe lạnh ngắt" khi bếp lạnh và "bụng trống không", khi "Khúc yêu trong màn khóc mớ/ Khúc yêu lạc giọng ru con"(Tam tấu).

Giữa những ngày sắt thép máu lửa đó, anh lại dám "Mơ sen": "Ao thu bỗng hóa biển cồn/ Cánh cò bỗng hóa cánh buồm trắng phau"- " Bỗng cò nghiêng cánh/ Gánh tôi về/ Thuyền sen", và dũng cảm "Ngẫm về thơ": "Thuyền thơ chở đầy trăng thơ/ Đầy trà đầy rượu đầy hoa/ Và đầy nhân tình". Chiến tranh không cướp đi của người thơ nguồn cảm hứng vô tận về "Mùa yêu": "Trong thương nhớ cất thành lời hát ru/ Âm dương tình ngỡ trong mơ/ Mùa yêu chẳng có bến bờ thời gian". Trong "Mùa yêu" đó, dường như anh cố gạt đi những âm thanh chát chúa để lắng nghe rõ hơn bao giờ hết "Dân ca buồn con sáo sang sông" hay "Rêu cổ tích rù rì kể chuyện" và ngẩn ngơ trước số phận do các bà tiên xếp đặt: "Phải định mệnh nhân duyên/ Bỏ bùa anh lạc lối/ Ai rủ chân sen tới/ Cửa rừng nơi hẹn hò?".

Trong khi những lứa đôi chia tay nhau để ra trận, người thơ lại "Hát tặng biệt ly": "Nghe sông chảy lững lờ đôi buồm trắng/ Nghe phố xá nằm dài trong mật nắng/Nghe nôn nao cánh bướm đậu hoa vàng".

Cái thời cần kêu gọi lòng căm thù và ý chí chiến đấu thì anh lại đưa ra những lời đạo lý cổ xưa của ông cha tưởng chừng lạc lõng": "Này cò này vạc này nông/ Không sống tử tế đừng mong thành người" (Ký ức ca dao) - "Chợt đôi lúc anh lạc mê lạc lú/ Em hãy là Bồ Tát khoan dung"(Lời tỏ tình).

Một "Vườn chiều có thực" của thời chiến tranh có khói hun muỗi từ giẻ mà anh lại hình dung như một vùng đất cát mềm của Tiên Dung - Chử Đồng tử, của Giếng ngọc Cổ Loa, có tiếng hát Trương Chi, ở đó "Tôi đang độc ẩm cuồng say/ Những ly rượu thơ cồn cào bụng đói/ Bao nhiêu người đang đói/ Có thơ uống như tôi đâu/ Sao em lại cúi đầu/ Thương tôi mắt khóc?"(Vườn chiều)

Trong những năm đáng lẽ chỉ được hát ca, anh đã ngậm ngùi kể về người mẹ vẫn "Thương thằng mộng mị thơ ca/ Chọn yêu cuộc tình kiếp nạn", và về người vợ "Chít trắng đầu tang/ Nuôi đàn em thay mẹ/ Mom sông cô gái nhỏ/ Tay cò mắt vạc kiếm ăn"(Thuyền tình)

Những điều "xa lạ" và "lạc lõng" nói trên- xét cho cùng là vô hại, thậm chí chúng cần thiết giúp cho con người giữ được cái gốc nhân bản trước những thảm cảnh khốc liệt, song đã vô tình góp phần tuyên một cái án "không có án" để gia đình thi sĩ phải ôm hận "ly hương" suốt mấy chục năm trời sau đó!

Thực ra, trong những năm tháng đạn bom ấy, người thơ có phần lập dị này cũng sống như tất cả cư dân Hà Nội. Mặc dù "Nhà em nóng rực như lò/ Đun chảy mọi điều mơ mộng/ Em là cô thợ ca ba/ Tôi lặng mình và chợt hiểu ra/ Có một Hà Nội khác/ Một Hà Nội của tôi"... Anh đã sững sờ trước "những kỳ ngộ đẹp như thơ/ Tình mình làm sao sánh được/ Ấy là lẽ vì sao em không khóc/ Trước gian nan tem gạo phiếu tiền/... Biết là mình đáng sống/ Dép lốp bè trầm áo xanh bè bổng". Anh đã khóc như tất cả những người dân lúc đó trước câu chuyện về người bác sĩ trẻ chết bởi bom Mỹ trong ngày cưới, đã xúc động run người trước hành động bất chấp hiểm nguy của những con người lao động bình dị: "Cô bác sĩ Cửa Đông nuốt khóc/ Thiệp hoa phủ xác nửa mình/ Anh thợ điện người Ô quan Chưởng/ Bới nhặt nửa mình trong đổ nát Khâm Thiên..." (Ca trù mùa thu). Anh cũng trở về cơ quan để "thay ca trực chiến" như mọi phóng viên khác của Đài tiếng nói VN, cũng "đồng loạt cánh tay giơ" để "lên Tháp Bút viết hùng ca"... Nhưng, cái "tạng" của anh không phải là "hùng ca"; và điều đặc biệt đáng quý là, người thơ hiểu rõ hạn chế của mình, anh đã không ít lần tự dày vò: "Ánh gằm gằm giấu sau đít chai/ Cháy thành lửa cũng là lửa mắt/ Mắt trông theo nắng vượt thác/ mắt trông theo trăng qua đèo/ Mặt trận cờ reo quân reo/ Trào lửa mà đành nuốt khóc/ Đứng tựa lưng trăng/ Bút thay gươm súng/ Chuốt câu thề" ( Tự họa tuổi trai).

Người thơ có khát vọng lý giải sức mạnh chiến thắng của hiện tại bằng mạch nguồn từ xa xưa, nên cũng dễ hiểu anh thường để "Hồn quanh quất nơi cửa rừng nguyên thủy" (Về cội). Và với trí tưởng tượng phong phú tràn ngập cảm hứng lịch sử, Nguyễn Nguyên Bảy hình dung: "Sử sách thắp trưng bạch lạp/ Chữ hiện mù sương"- "Trăng nhớ những đêm Lạc Việt/ Gươm kiếm mài ngời trăng lu" (Chứng tích chiến tranh). Anh say sưa với "dòng sông chảy qua làng Việt cổ", với những nơi nào từng có "Sá cầy lật mở binh thư/ Người cấy lửa vào lúa/ Người chép lửa vào thơ" (Huyệt lửa). Anh là nhà thơ đầu tiên của thời mới tìm thấy sự đồng cảm lạ lùng với Thánh thơ Cao Bá Quát và có cả một tráng ca về cụ: "Đời Quát có hai vua/ Thơ Quát chỉ có quyền chọn một"- và Cao Bá Quát đã chọn"một ông vua là con dân mẹ nước"; thế nhưng "Đói khát vẫn hoàn đói khát/ Xã tắc khốc hư/ Ngậm miệng vái xin trời Phật", và anh nguyện sống với "Thác đoàn quân Cao Bá Quát/ Vào tử tìm sinh."(Thánh Thơ).

Từ cảm hứng lịch sử , Nguyễn Nguyên Bảy nhìn lại cuộc chiến tranh hiện tại và có cách cảm nghĩ riêng. Trong bài "Quả Mặt trời", trước tội ác hủy diệt của giặc Mỹ, anh băn khoăn: "Chảy đi đâu hỡi máu"- "Máu đã chảy lên thành Quả Mặt trời"- nhưng ấn tượng hơn cả vẫn là "Giấc mơ thơ nát bấy như bùn" và "Tọa tòa sen Phật bà khóc" (Chùa Một cột).

Nguyễn Nguyên Bảy muốn "Tượng hình làng quê sông núi" theo cách riêng của anh: "Tinh tú tôi ơi, sao thốt lời buồn/ Lập nghiệp gì đâu đời thi sĩ/... /Em gái quê cần lời thay nước mắt/ Ủ vào khăn tặng bạn trước chia ly/ Và với tôi điệu vần ấy đôi khi/ Cứu tuyệt vọng xô đời xuống vực" (Tinh túy ngộ duyên). Nhà thơ biết phận mình: "Đời cha nghèo xác/ Chỉ những bài ru là giàu có hơn người"(Ru con)

Mặc dù Nguyễn Nguyên Bảy từng viết ca ngợi nụ cười: "Nụ cười là đặc sản của dân tộc tôi"( Đề dưới nụ cười), song ở thơ anh phần lắng đọng rung cảm nhất lại là nước mắt- nhất là của những người phụ nữ mà "giọt khóc rơi xuống thì thầm"(Cầu thương). Bởi chính người thơ tuyên bố: "Mà tôi/ nghĩ lạ lùng chưa/ Học khóc/ Bởi sợ đời dư hát cười"(Học khóc). Nhà thơ không chỉ nhìn thấy những quả bom rơi xuống đe dọa cuộc sống bình yên, mà còn nhìn thấy cả chặng đường lam lũ đói khổ của các làng quê Việt từ ngàn xưa và chưa biết đến bao giờ chấm dứt: "Sông cái chia nhánh còng số tám/ Nước khóa làng tôi"- "Thương đất trắng chìm trong lũ"( Làng nước)- "Những câu ru nhang cháy/ Dưới trời bâng khuâng hương"(Lời ru dưới mỗi mái nhà). Nhà thơ tự nhận: "Anh có lỗi đã thăng hoa bi kịch". Nhưng anh không thể làm khác, bởi một lẽ giản đơn: "Anh hằng kể con nghe kiếp sống ông bà/ Trải bao nhiêu cực khổ/ Vẫn trước sau làm người tử tế/ Ngẩng đầu đi khắp thế gian. Điều khiến anh băn khoăn giữa lúc phải trốn chạy cái chết từ trên trời rơi xuống cũng là: "Con anh sao chẳng nên người/ Cháu anh sao chẳng nên người/ Không nên người/ Thì sao còn sông Cái sông Con/ Sao còn tiếng hát Mỵ nương/ Chèo đò lên non Tản/ Bỗng cháu nội hươ hươ thức sáng/ Hỏi sao ông khóc ông ơi?"

Thái độ nhún nhường này của anh chắc cũng gây ra sự nghi kỵ, soi mói, bởi xu thế thời đại là phải vươn tới đỉnh cao, phải "ra ngõ gặp anh hùng", vậy mà anh dám chỉ nhận mình là "tre nứa": "Thông tùng cao ngạo phong ba/ Chẳng lẽ tre nứa không là đời cây ?/ Mặc ai chò chỉ lim mây/ Ta vẫn kiêu hãnh một cây giang thường "…

Trực giác và kinh nghiệm sống cho nhà thơ nhìn thấy giữa thời "hùng ca" đó đã manh nha những vấn đề đáng quan ngại đối với đạo lý truyền thống - đó là chủ nghĩa xu thời, chủ nghĩa thực dụng, thói ích kỷ xuất hiện, cùng những thứ không thể tồn tại bên cạnh sự "tử tế"; nhiều lần anh đã phải thốt lên cay đắng: "Quanh ta hỏi có bao người/ Gian manh mà vẫn sống đời tụng ca"(Bài ru trằn trọc).

Những khi chán nản,"Giữa Âm Dương mông lung", buộc phải "Hát rong tôi trộn kinh hoàng vào đêm", nhà thơ chỉ biết "Tôi tụng tôi/ Nhân quả"( Cửu tụng). Thất vọng bởi những lời hứa hẹn xuông, những diễn văn lắm lời với những viễn cảnh to tát chỉ có ở thiên đường, anh "thắp nén nhang thơ"(Chép thơ công nghiệp đất) và khao khát "Ra với biển đi tất cả những ai/ Hoang tưởng như tôi biển mời ra biển"(Biển mời), hay cư xử một cách khá nghênh ngang làm tức mắt chẳng ít người: "Tôi bay trên bể đời giông tố hát nghêu ngao". Anh tìm đến "Thiên nhiên" như cội nguồn sinh lực và lòng tin yêu cho mình: "Tâm hồn anh bay lượn giữa thiên nhiên/ nghe ríu rít tiếng thơ trong lá cỏ"- "Công danh thế là quá đủ/ Phận mình thuyền thúng qua sông"... Tất cả cốt chỉ để mong vượt qua những nghiệt ngã của đời mà anh kể lại trong "Tự thuật sinh tồn"; thế nhưng anh đã vô tình "Phạm luật người quan họ" và phải trả giá: "Khốn khổ thân tôi đa tình/ Phạm luật người quan họ/ Cõng một cánh bèo giạt trôi".

Và cả đời nhà thơ phải "hơ hoảng" khi đã quá dại dột, dám liều mạng làm một chuyện tày đình vào những năm 70 thế kỷ trước khi tuyên bố thẳng thừng: "Thơ là Thơ. Thơ không phải là địa vị xã hội của người làm thơ", và "phạm tội trẻ con" là "Luận Kiều thời chinh chiến..." (Tự thuật tội lỗi).

Tôi chưa rõ "Thơ NNB II" có những gì, song với "Thơ NNB I" mà tôi đang có trên tay, tôi chợt liên tưởng người thơ có phần "kỳ dị" này với nhân vật bác sĩ - nhà thơ Zhivago của nhà văn Nga Boris Pasternak. Trong biết bao sóng gió kinh hoàng của số phận, cắn răng chịu đựng những tàn bạo phi lý của chiến tranh, Zhivago vẫn băn khoăn trăn trở với sự nghiệp văn chương của mình; anh đã viết bản trường ca "Xao xuyến" với ý tưởng sáng tác như sau: "Bao lâu nay chàng vẫn muốn miêu tả cái cảnh trong ba ngày một cơn bão đất đen tối, lúc nhúc dòi bọ, bao vây và tấn công ra sao cái hiện thân bất diệt của tình yêu, ném đất đá rào rào vào nó, vào cái hiện thân ấy, hệt như những lớp sóng biển dồn dập đập vào bờ và chôn vùi bãi biển..."("Bác sĩ Zhivago" - Lê Khánh Trường dịch)

2. Trong khi "tìm cho mình một con đường khác, lầm lũi riêng mình, lầm lũi yêu thơ", NNB hầu như không bao giờ hoàn toàn hòa nhập vào cảnh ngộ, mà anh thường có góc riêng kín đáo nhìn đời, nhìn chính thân thế và tâm trạng của mình để phát hiện ra các thi tứ và "tụng" thành thơ sau khi đã âm thầm vượt qua bao nỗi buồn đau cay đắng. Sau khi đã tạm thời "hóa thân" vào nàng Kiều và các nhân vật của Truyện Kiều, vào Từ Thức, vào các bà Tiên, vào Sông Cái, vào Kinh thành Cổ tích, vào Thánh Thơ... nhà thơ dần lùi xa khỏi những nhân vật tưởng tượng để bắt đầu miêu tả, dựng lên thế giới tinh thần của họ - bằng cách đó mở rộng đến gần như là vô hạn biên độ của xúc cảm và tư duy nhận thức cho bản thân sau đó là cho người đọc. Sau khi đã "khách quan hóa" nhân vật trong tưởng tượng, NNB làm công việc khảo sát, đánh giá về thân phận, phẩm cách... của nhân vật đó và đồng thời cũng tự bộc lộ thân phận cùng phẩm cách của chính người thơ. Thường là, từ một nguyên cớ, một biểu tượng giàu sức thuyết phục hay đã từng quen thuộc trong đời sống lịch sử- văn hóa dân tộc, sau khi đã làm giàu có thêm cho biểu tượng bằng nội lực văn hóa thẳm sâu và thăng hoa nó bằng xúc cảm thơ tràn trề, anh quay trở lại đào sâu mãi vào chính nội tâm đang ngổn ngang ( thậm chí có thể còn đang hoang mang nữa) của mình như đã tìm được chỗ dựa, đã tìm được vỉa mạch, và chính tại những chỗ này, khi "Anh bật khóc thành tiếng/ Nước mắt tràn đê", thơ anh thường lóe sáng một cách thực bất ngờ, khiến người đọc rung động ngây ngất... NNB thường đem cả trải nghiệm đời mình làm chỗ dựa, làm sự tham chiếu cho từng câu thơ một! Và phải chăng điều này cũng đã góp phần quan trọng khiến thơ NNB trở nên vô cùng phong phú- phong phú đến rậm rịt làm người đọc như lạc vào mê hồn trận của chữ nghĩa phập phồng cảm xúc của tác giả nhưng vẫn được tác giả kéo riêng ra một chỗ để suy ngẫm về nhân tình thế thái...(Tiêu biểu như các bài Từ Thức bơ vơ, Sông cái mỉm cười, Ô cửa vuông trăng, Âm dương, Gia phả, v.v.)

Nhưng ngay cả khi viết về ( hay viết cho) một đối tượng gần gũi thân yêu nhất, NNB cũng sử dụng biện pháp tạm gọi là "phân thân" này. Trong bài "Hai ngôi sao không lặn bao giờ", đoạn đầu nhà thơ bày tỏ tình cảm trực tiếp với vợ: "Anh không nhận ra em/ Một năm có là bao xa cách/ Em ủ đầu anh vào ngực/ Anh không thể nào hỏi được/ Sao tiều tụy thế mình ơi?" Nhưng ngay liền đó, nhà thơ tách ra khỏi quan hệ trực tiếp để quan sát người vợ kỹ càng hơn, thông qua biểu tượng là đôi mắt, và đồng thời quan sát miêu tả chính nỗi xúc động của mình- hơn thế, để khái quát về thân phận của người phụ nữ trên "đường đời nhiều cạm bẫy": "Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt chạm chạp u buồn/ Một nốt ruồi đẫm lệ/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt vẫn như ngày nào/ Đôi mắt ngày nào tôi nói yêu em/ Đôi mắt khép nhận lời/ Chỉ còn đôi mắt vợ của tôi/ Toàn thân em như cây thị rũ lá/ Khô cành trước gió ban mai/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt kể tôi nghe/ Lưng ngày nắng quật/ Đêm ngồi bỏng vú nuôi con/ Vai gánh nỗi thương chồng/ Đi xa đường đời nhiều cạm bẫy/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt đổ xiêu." Tới đoạn 3, đoạn sau cùng, nhà thơ lại trở về vị trí trong đoạn thơ đầu, trực tiếp tâm tình với vợ; nhưng ở đây, đôi mắt đã được tách ra thành đối tượng thẩm mỹ riêng biệt đối với cả hai người, và đó chính là một sự "phân thân" cấp số nhân khiến cảm xúc được dồn nén nghẹn ngào suốt từ đầu bài thơ đến cuối cùng chợt vỡ òa: "Anh ôm đôi mắt ấy/ Bỗng òa đôi mắt khóc/ Tình rụa ràn mặt anh/ Đôi mắt u hoài trong vắt/ Đôi mắt ấy chính là hai ngôi sao trên trời/ Đêm đêm nhìn anh/ Thức với anh/ Đi cùng anh/ Hai ngôi sao không lặn bao giờ." Thương cảm nhưng không chìm ngập trong nó mà để đúc rút ra được biểu tượng của Cái Đẹp và Tình Thương! Đây có thể nói là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu cho phong cách NNB (tạm gọi thế); và nếu tôi có trách nhiệm trong Ban tu thư soạn SGK, tôi sẽ đưa ngay bài này vào chương trình văn học bậc phổ thông trung học!

Nhìn chung, ở thơ NNB, các yếu tố tự sự ( narrative) và trữ tình ( lyric) hòa quyện khó phân biệt - trong tự sự đã thổn thức trữ tình và khi trữ tình lại đậm đặc tự sự - đó là một thứ tự sự giống thể văn kệ của văn học Phật giáo song lại giàu trực cảm. Sự trang trải thi hứng đến ào ạt không ngăn cản NNB thường cô đúc câu của thơ mình vào một hình thức ngắn gọn, mộc mạc như lời nói thường ngày song có sức nặng triết lý như châm ngôn, tục ngữ và gửi gắm được suy tư thâm trầm của một" thầy phù thủy" chữ nghĩa.( "Có đường bởi có bước chân/ Có ngã ba bởi đời cần tìm nhau" - "Xin đừng hỏi anh vì sao/ Viết hoài chuyện tình hai đứa/ Anh còn gì khác tặng em" - "Em đã trả lại anh cho đời/ Đã trả lại dòng thơ thủ thỉ cho yêu/ Cái chết bỗng trở thành hèn nhát" - v.v. )

Ngay từ những bài thơ đầu tiên của mình, NNB dường như đã có xu hướng huyền thoại hóa những hình ảnh, những chi tiết thơ, những quan sát cùng nhiều thi liệu khác đã trở nên quen thuộc thậm chí mòn sáo nhưng khi nhìn qua "Gằm gằm nỗi gì sau đít chai" cộng với một tình thương trĩu nặng thường trực thì "ngựa lá đa sẽ hóa ngựa thần"... Xu hướng tinh thần và dần biến thành quan niệm sáng tác vững bền này khiến người thơ thỏa sức chìm trong "Ký ức ca dao", trong "lung linh cổ tích đêm mơ" và biết bao biểu tượng của văn hóa dân tộc gần gũi với mỗi người dân Việt từ thở ấu thơ cho đến khi từ giã cõi đời- dù ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Thơ NNB, từ thời xa lắm cho tới gần đây nhất, hầu như chỗ nào cũng ướt lệ và thầm thì âm hưởng những lời ru nao lòng "rợp từng đàn cò trắng" hay "âm âm lời Chinh phụ lời Kiều"... Nhà thơ đi trên "một con thuyền Trương Chi "suốt từ thời tráng niên cho tới ngày lên lão mà chưa hề thấy mệt mỏi, chán nản, ngược lại dường như càng đắm say thêm những gì được thấy được nghe trên con thuyền ấy- kể cả tiếng hát cô đơn xa xót của chính mình... Lắng sâu vào cuộc đời dân tộc, đúng hơn là vào hành trình đau khổ của dân tộc- bằng phương tiện khi là lục bát, lục bát biến thể, khi bằng thơ không vần, thơ văn xuôi- nhà thơ bằng cách đó làm giàu có cho tinh thần mình, để trước hết dạy dỗ các con thông qua những "Bài ru trằn trọc" về những lẽ đời nghiêm trang cảm động- và bài học quan trọng nhất là tình thương, lòng trắc ẩn- cái điều đang thiếu trầm trọng trong hệ thống giáo dục của ta! Tôi bỗng nhớ đến Châm ngôn thứ hai trong việc giáo dục học trò ở một tác phẩm lớn của J.J. Rousseau chính là câu thơ Latin của thi hào Virgile: "Tôi biết điều bất hạnh, chính nó dạy tôi cứu giúp những người đau khổ". (2) NNB bơi lội hít thở trong cái "trường" văn hóa dân tộc đậm đà tình nhân ái của ông cha từ thở thơ ấu, từ buổi "lần đầu tiên thấy mình lòng tôi chiêng trống", mà đối với anh dù đi suốt cuộc đời "vẫn là mới sáng hôm qua"... Nhưng không phải nhà thơ vay mượn những hình ảnh ấy, vay mượn những biểu tượng và sự thụ cảm dân gian ấy, mà chúng thực sự là máu thịt của anh, nảy sinh từ trong huyết quản và từ tận tế vi tiềm thức, chúng được chứng thực bằng nỗi đau riêng và nỗi đau chung của anh!... Lắng nghe một cách chăm chú chật vật, giao tiếp một cách đau đớn, đối thoại một cách vật vã, để rồi sau đó nhà thơ chỉ làm cái việc là vội vàng run rẩy ghi lại một cách chân thật những gì mà tiềm thức nói, những gì mà chàng Từ Thức tâm sự, những gì mà Thánh Thơ Cao Bá Quát dạy bảo, những gì mà nàng Kiều thổn thức, những gì mà bà Tiên phán truyền, những gì mà người cha trăng trối... Sự thống nhất khá bền vững của hệ thống thi liệu và cách thụ cảm dẫn tới nghệ thuật biểu hiện rất nhạy cảm với nỗi khổ đau này, theo tôi là một nét đặc sắc riêng biệt khó trộn lẫn với bất kỳ ai của thơ NNB, lý giải phần nào sức cuốn hút gần như huyền bí của thơ anh (mà nếu là các nhà phê bình chuyên nghiệp sẽ đưa ra lý luận về thi pháp để soi rọi, phân tích, còn một kẻ tay ngang như tôi thì không dám lạm bàn.)

3. Tạm kết.

Trong một tập sách đối thoại về thơ rất thú vị mới đây, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tùng có dẫn câu nói của nhà thơ Wiliam Carlos Wiliams: "Khó mà có thể tìm ra các tin tức trong thơ, thế nhưng hàng ngày, con người vẫn chết thê thảm vì họ thiếu những điều chỉ tìm thấy trong thơ." (2) "Những điều chỉ tìm thấy trong thơ" đó- dĩ nhiên phải là thơ thứ thiệt- chúng ta có thể tìm thấy trong từng dòng, từng trang thơ NNB mà ở đó anh đã thành thật đến não lòng kể lại: "Thơ tôi đã ra đời trong tiếng gõ cửa dồn gấp, trong những lời kêu thét bệnh hoạn, trong đói nghèo muốn cuốn đời vào hèn hạ, nhưng nó vẫn kiêu hãnh khóc như trẻ sơ sinh, trên cái bàn chí đứng ba chân (một chân đã mọt gãy), với một gía sách, trong căn nhà lá 8 mét vuông, lợp giấy dầu, cạnh chuồng tiêu, ao bèo, bè bạn với côn trùng và muỗi đói..." Và đây nữa: "Những dòng thủng thẳng này được viết ra trong đói nghèo không thể tả bằng ngôn ngữ và trong những khủng hoảng tinh thân triền miên, vô lý. Nhưng lòng vẫn cố không rời phao thơ để nâng xác, cứu hồn... nếu như bạn biết tôi đã phải sống trong hoàn cảnh nào, về thân xác tôi bị đói rét hành hạ, về tình thần tôi bị ruồng bỏ và canh gác sát sao. Tôi đã chép những chán nản ấy, những thất vọng ấy, những cay đắng ấy vào thơ. Và hân hoan thay, thơ trả lại cho tôi những dòng chữ nghĩa như khí cho tôi thở, như lửa cho tôi chế biến thức ăn, như sông suối cho tôi tắm mát. Đó là đức tin phải có, đức tin phải sáng rạng trong tâm hồn..."

Thưa Bạn đã và sẽ yêu quý thơ NNB, hãy thử, với một cánh cửa tạm mở như trên mà bắt đầu (hay thêm một lần nữa) bước vào thế giới thơ NNB, và trước hết hãy đọc nó như đọc một tập kinh cầu nguyện khi ta có Đức tin về Thơ, về Tình thương và Ân nghĩa trong Cõi Đời còn nhiều gian truân và ngang trái này... .

Hà Nội, tháng 6-2011

Nguyễn Anh Tuấn

* Thơ Nguyễn Nguyên Bảy, Nxb văn học, HN, 2010

1. Tên những tác phẩm trường ca & thơ dài nổi tiếng của Phạm Ngọc Cảnh, Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm...

2. "Émile hay là về giáo dục"- Nxb Tri thức, HN, 2008

3. Dẫn theo: "Thơ đến từ đâu", Nxb Lao động, HN, 2009