Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

TRẦN QUỐC THỰC - NGƯỜI THƠ THẦM LẶNG ĐÃ 3 NĂM XA VẮNG

Phạm Đức, Nguyễn Thụy Kha
Thứ hai ngày 27 tháng 12 năm 2010 6:28 AM
TNc: Sinh 16-8-1948, mất ngày -31-12-2007, tính đến hôm nay (22-11 âm lịch), nhà thơ Trần Quốc Thực đi xa đã 3 năm.
Sống trên đời 60 tuổi, để lại 5 tập thơ với những bài thơ da diết buồn của một số phận long đong, Trần Quốc Thực vẫn được bạn bè nhớ đến như một gương mặt thơ riêng biệt, đặc biệt là sự thầm lặng, mỏng mảnh, chơi vơi. Nhiều người nhắc đến Trần Quốc Thực như một thi sĩ hay rượu, nhưng không phải ai cũng biết rằng cuộc đời Trần Quốc Thực đã đi qua đủ cung bậc của một thanh niên thế hệ chống Mỹ: 17 tuổi, anh xung phong ra mặt trận, có mặt ở một đơn vị TNXP của tỉnh Hà Nam (sau đó chuyển sang quân đội), 7 năm bám trụ ở những cung đường Trường Sơn chịu bom đạn ác liệt nhất. Đơn vị này sau được tuyên dương Đơn vị Anh hùng. Riêng Thực bị sức ép bom rất nặng, ảnh hưởng dài lâu đến sức khỏe sau này. Từ Trường Sơn trở về, anh vào học Đại học Tổng hợp, khoa Sinh vật, nhưng rồi không đủ sức khỏe vì bệnh phổi lép dẫn đến ho lao, nên phải nghỉ học. Lận đận mãi sau này anh mới vào học khóa II khoa viết văn, Trường Đại học Văn hóa. Là người lính thật sự nhưng chẳng mấy ai biết Thực là người lính thế hệ chống Mỹ. Là thương binh thật sự nhưng mấy chục năm sau – trước khi mất khoảng gần 2 năm, anh mới được công nhận là thương binh… May sao, Thực có thơ bù đắp…
Xin gửi đến bạn đọc một vài chum thơ của Trần Quốc Thực và 2 bài viết về thơ Thực của nhà thơ Phạm Đức và nhà thơ Nguyễn Thụy Kha – tất cả trích trong tập Khúc Lặng Lẽ (tuyển tập thơ) đang được gia đình cố gắng cho ra mắt bạn đọc trong thời gian tới, để chúng ta cùng nhớ về một đời thơ lặng lẽ cống hiến cho thi ca.
 
 Thơ Trần Quốc Thực
 
TIỄN

Bạn đi nhé thôi không tiễn nữa
Một tay nâng chén dâng ngang mày
Bạn đi nhé, thôi, không giấu nữa
Một tay còn bận giấu khăn tay

Ngày mai bạn đã phương xa lắc
Ngẫm nhau, nắng se sẽ ngả màu
Ngày mai tôi đã khung trời khác
Muốn nhắn gì sang không dễ đâu

Tiễn nhau một bận qua bậu cửa
Tiễn nhau lần nữa trong chiêm bao
Xa ngoắt ngõ xanh bạn biến khuất
Tôi đã gói khăn ở kiếp nào…
 
KHÔNG ĐỀ
 
Đi một trưa hè, con thương mẹ
Chợ Bầu, sông Đáy, nắng nôi
Phấn trắng mẹ phơi sườn sông vắng
Tóc trắng mẹ phơi dưới nắng trời

Mẹ ơi áo mẹ mười năm nắng
Tóc mẹ phơ phơ dáng lặng thầm
Mẹ ơi tay mẹ mười năm trắng
Chân mẹ mười năm mưa nắng ngâm

Đi một trưa hè. Đi suốt trưa
Vóc người đổ sáng những năm xưa
Trưa nay sông Đáy mơ hay thức
Sóng vật mình lên nom xanh chưa ?...
 7 – 1988
 
EM

Anh mang tặng bạn bè ý đẹp lời hay
Lúc tới em anh chỉ có sự im lặng
Em ngả mái tóc lên miền ngực anh rộng dài
Nơi có một tiếng Em vừa chìm xuống

Anh soi mãi, soi cháy cõi mắt em yên tĩnh
Ngọn lửa vang lên mà anh không biết đặt tên
Ngọn lửa toả sáng một vầng, kiêu hãnh
Trên ngực anh

Em ấm mềm. Em thơm thảo bên anh
Em dũng cảm đón từ anh gió nắng
Em! - Cái thứ tiếng nhẹ bông, mà nặng
Lặng cháy trong anh, lặng lẽ cháy trầm.
 
 
Trần Quốc Thực và Khúc Lặng lẽ
 
Nhà thơ Nguyễn Thuỵ Kha
 
Giữa rất nhiều giọng thơ khoa trương, khoa mẽ hôm nay, Trần Quốc Thực là một giọng thơ lặng lẽ đầy bản sắc. Sự ngại giao tiếp,  âm thầm dâng hiến cho thơ của Trần Quốc Thực đã khiến cho nhiều người không biết đến thơ anh. Đó là cái thiệt cho bạn đọc mà nhiều nhà thơ đích thực trong đó có Trần Quốc Thực đã không để ý. Họ chỉ nghĩ làm sao viết được bài thơ hay mà không chú trọng đến việc bài thơ hay ấy đến với công chúng như thế nào. Nhưng dù bị chìm khuất, bị ganh ghét, bị đố kỵ, những nha thơ đích thực vẫn có riêng một vị trí của mình, chẳng ai xoá đi nổi, qua thời gian.
Giống chúng tôi, Trần Quốc Thực là một nhà thơ thuộc thế hệ chống Mỹ - thế hệ chín muộn. Anh có hai người anh làTrần Quốc Anh và Trần Quốc Thành đều làm thơ, viết văn. Riêng thầy giáo Trần Quốc Anh  khi dạy học ở Hà Tĩnh thời chiến tranh phá hoại, thày đã nhường hầm trú ẩn cho học sinh và đã hy sinh ngay bên miệng hầm, để lại những câu thơ như Anh con trai làng Thạch Linh thương mẹ ở tuổi 28. Chính sự hy sinh của người anh đã đem lại nhiều thôi thúc  chàng thanh niên Trần Quốc Thực dấn thân vào chiến trường và tuy không hy sinh như anh trai, Trần Quốc Thực cũng là một thương binh với nhiều nỗi niềm khúc khuỷu ở đời. Chính những nồi niềm ấy đã được anh hát vu vơ thành những  tập thơ, thành một cõi thơ Trần Quốc Thực.
Trần Quốc Thực đúng là một nhà thơ - chín - muộn. Mãi tới năm 1990, anh mới trình làng tập thơ Miền chờ. Đấy là tên bài thơ Miền chờ Trần Quốc Thực viết tặng Trúc Thông, khá hay, chắc là để mừng chủ soái đã tính lập gia đình ở tuổi 49. Nhưng khi trở thành tên tập thơ thì Miền chờ lại mang âm hưởng nhớ thương về miền quê mẹ Hà Nam - Phủ Lý. Cũng nhớ thương về miền quê này, thơ Nguyễn Hoa thường chân phác và đằm thắm, còn thơ Trần Quốc Thực thì thảng thốt những nứt rạn mơ hồ. Cả hai đều hay dùng điệp âm có lẽ là cách nói dân dã của vùng chiêm trũng này, những điệp  âm ở Nguyễn Hoa thì reo vang, còn điệp âm ở Trần Quốc Thực lại u trầm khó tả: Tim tím hoa bèo nở dạt trước hiên hay Xóm vạn lênh đênh bạc màu tóc mẹ trong bài thơ Phố trên sông. Bài thơ vẫn dừng ở những câu thơ tả, nhưng đã có ý thức nâng thành tư tưởng sống kiểu Trần Quốc Thực:
Nặng trong anh doi đất trên sông
Một doi đất ba phần ngâm trong nước
Nhận xói lở nhận giá buốt
Đỡ trên vai tình yêu đôi ta.
Đến bài Không đề thì miền quê ấy thực sự thảng thốt. Những danh từ nắng và tính từ trắng đang da diết trong giai điệu Hàn Mặc Tử Dọc bờ sông trắng nắng chang chang một vần lưng liền mạch thì lại vỡ tung toé như số phận người mẹ chợ Bầu, sông Đáy trong thơ Trần Quốc Thực:
Phấn trắng mẹ phơi sườn sông vắng
Tóc trắng mẹ phơi dưới nắng trời
Mẹ ơi áo mẹ mười năm nắng
Tóc mẹ phơ phơ dáng lặng thầm
Mẹ ơi tay mẹ mười năm trắng
Chân mẹ mười năm mưa nắng ngâm
Trần Quốc Thực yêu mẹ có lúc lạc cả giọng chủ âm của thơ mình sang một giọng khác với thi ảnh khác: Như bình ắc quy sắp hết điện/ Con sắp hết mẹ trong  người . Mẹ là cảm hứng chứa chan trong giọng thơ Trần Quốc Thực cho đến khi anh cất bước sang cõi khác. Sau mẹ, là cảm hứng bi tráng về một người  anh đã khuất. Bài Nói với anh tuy có phảng phất hơi hướng Tống biệt hành của Thâm Tâm, nhưng vẫn là bài thơ hay, tuy chưa đạt tới độ tinh xảo như những bài thơ nhớ anh của các tác giả khác: Mẹ giờ đã thật tuổi già/ Người hay quên như trẻ nhỏ/ Em giờ đã nhiều phôi pha/ Nhiều vết thương không cách chữa.
Bài ca vu vơ là một hơi thơ như không, tưng tửng khi đã vượt thoát ra  khỏi những rối bời, những sầu muộn: Trời xanh vu vơ/ Chim sơn ca hót/ Đồi xanh vu vơ / Một tôi đứng hát…/ Thì ra sơn ca/ Bao đời đã hót / Còn tôi trên đời/ Chiều nay mới hát / Vu vơ vu vơ/ Cả hai cùng hát…. Nhưng cũng chính trong Miền chờ, Trần Quốc Thực đã thầm thông báo những trắc ẩn đầy linh cảm về cuộc đời sớm héo hắt của mình. Bài Linh cảm được viết với tâm thức như vậy, nhưng đến bài Tiễn thì thông báo ấy đầy hoang mang: Ngày mai tôi đã khung trời khác/ Muốn nhắn gì sang không dễ đâu/ Xa ngoắt ngõ xanh bạn biến khuất/ Tôi đã gói khăn ở kiếp nào.
Miền chờ vừa cho Trần Quốc Thực có giải thưởng Nguyễn Khuyến (1985 - 1990) lại vừa cho bạn đọc nhận biết về một giọng thơ chín muộn không ồn ào, nhưng bắt đầu tạo cảm giác mới ở thi tứ, lạ ở cách lập ngôn. Giai điệu thơ Trần Quốc Thực thường giao động trong ba vùng tâm lý: Tự ty, tự tin, tự kiêu và có những xuất thần thi sĩ không kiểm soát được bằng ý thức.
Đến Nét khắc sau Miền chờ tròn 5 năm, Trần Quốc Thực đã mang vào thơ mình một ám ảnh thiền định, mang vào một cách có ý thức ngay từ hai câu thơ mở tập: Hun hút một sông ngày khuất mẹ/ áo xống phần phật đêm không nhà. Loang như sương mờ trong toàn tập, ám ảnh thiền định lại khiến cho Trần Quốc Thực khắc sâu thêm bóng dáng những người thân đã hiện ra trong Miền chờ. Vẫn là mẹ nhưng ở Nét khắc, hình ảnh người mẹ hiện ra trong hương khói của tâm linh, vẫn là cách dùng điệp âm nhưng điệp âm ở đây như tiếng chuông chợt nhỏ vào tiếng cầu kinh đều đều trong tiếng mõ từ tục: Sao thiếu vắng bát nhang bên ngoại/ Con nghe hun hút một dòng sông/ Hun hút gió thổi về bến vắng/ Ngàn ngạt trăng dâng sáng cánh đồng…/Người đã khuất trở về thơm ngát/ Trên bát nhang tháng ngày mẹ thắp/ Vùng hương từ tay mẹ gày gùa/ Dâng dâng như sắp tự nắng mưa/ Sương gió một  triền sông hun hút .
Người mẹ trong thơ Trần Quốc Thực ở Nét khắc ảo huyền hư thực một miền hương khói: Tay mẹ gày gùa thắp thơm nén nhang/ Thắp thơm chín phương khấn người cõi trước/ Một phía trần gian trăm cày ngàn nhẫn/ Mẹ làm hạt thóc kẹt giữa lòng sàng. Thấm nhuần những tư tưởng Phật giáo, Trần Quốc Thực đã khai ngộ một cách nhìn tầm vóc hơn về mẹ qua Giấc ngủ trưa, Mẹ ơi, Thần cảm 2.
Đối với người anh đã khuất, Trần Quốc Thực lại khắc thêm lần nữa đầy ấn tượng qua Nói với anh về mưa, thơ ở đây không nén kìm nữa, mà tuôn chảy ào ạt như nước mưa đầm đìa thương xót: Bao nhiêu mùa mưa qua rồi/ Sao mới mãi lời mưa Đức Thọ/ Mưa cứ hát dạt dào trên mái lá/ Trong lòng em mưa cứ sáng ngời/ Trong lòng em, anh mãi hai tám tuổi/ Nắng gió phơi phong sáng sủa vóc người.
Người yêu ở Nét khắc cũng được Trần Quốc Thực đam mê hơn ở Miền chờ: Nơi có một tiếng em vừa chìm xuống. Trong Nét khắc, giữa người yêu và tác  giả luôn có một ánh sáng bàng bạc cửa thiền: Có thể ngồi trước em, có thể ngồi trước thế thái/ dẫu sao, phải  được ngồi trước mình/ ngồi trước nguồn sáng trắng lúc chớp mắt/vào sâu tận tâm can ta vắng tanh (Nhập định).
Bài thơ Thu 8 cũng là một ấn tượng như thế Cứ thế em đầy dần lên, tràn ra ngoài những dòng chữ/ tràn qua mặt bàn, tràn ra ngoài thềm/ tràn lên lối đi, tràn đến một bóng cây đang run rẩy/ và… tràn xuống mặt Hồ Tây đang trăng lên…
Mới hơn ở Nét khắc là ngoài những bạn bè, những thân người còn có thêm hình ảnh đứa con. Những bài thơ viết về con của Trần Quốc Thực thật riêng, dịu dàng như tình phụ tử: Con sinh phải cái thời mà các bậc bố mẹ rất hay chia tay nhau/ những cuộc chia tay thật bẽ bàng, thật khó xử/ Bố với mẹ của con cũng không ra ngoài thông lệ đ/ kể cũng đáng buồn, song biết chữa cách nào… (Con).
 Rồi: Con gái của bố, cái khoé duyên thầm của bố, cái niềm khúc khuỷu của bố/ con đang giang tay giang chân chiêm bao trong giường (Viết cho con trong đêm chợt thức).
Nét khắc đã đem đến cho Trần Quốc Thực giải thưởng A do UBTQ các Hội VHNT Việt Nam trao năm 1995. Sau Nét khắc, Trái tim hoa bìm ấn hành năm 1998 là một tập thơ tình viết chủ yếu dành cho một người. ấn tượng nhất là các biến tấu mang tên Thu từ 1 đến 7 (Thu 8 đã in trước ở Nét khắc), cùng các bài như: Đêm thu mười chín, Khúc lặng lẽ, Chiều…. Thơ tình không phải là thế mạnh của Trần Quốc Thực, nhưng  chính tình yêu chân thực đã giúp cho anh có những đoạn thơ tình độc đáo: Anh đến được em rồi/  mệt quá!/ Trái tim anh rung vang/ Và anh nằm như một đứa trẻ con/ trên  cánh tay em để trần/ chân tay anh khuyềnh khoàng/ trong veo gương mặt…Thật đang kiêu hãnh khi có một người yêu đã đồng hành một thời máu lửa: Tôi biết em đang nhìn về/ dòng thời gian chưa khuất/ dòng thời gian của những người con gái con trai/ máu lặng lẽ chảy ròng xuống đất/ dòng thời gian có em có tôi/ trong vắt… (Khi em quay đi).
Đến tập Tháp cúc ấn hành năm 2003 và được đồng giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội và Hội Nhà văn Việt Nam, sức khoẻ Trần Quốc Thực đã khá yếu. Bệnh tật ngấm sâu từ thời chiến tranh, gặp tuổi tác mà ra, cắn xé người thơ. Bút lực đến lúc cần tả xung hữu đột, cần đuổi mưa, lừa gió thì lại lực bất tòng tâm. Chỉ còn lại sự tinh tế, sự bình thản đón nhận mọi lành dữ, tử sinh. Bài Tháp cúc với nhịp thơ bốn chữ gợi cảm giác nhịp điệu ở Kệ khuyến chúng của Trần Thái Tông trong Khoá hư lục (Quyển hạ) như khơi vơi cùng hư không: Tháp cúc quệt quạc/ ánh vàng lên mây/ miền sông lối cát/ Miền trời heo may/ miền nào nữa cúc/ đầy hao bóng người…. Hình như đó mới chính là tiếng thở dài buông thõng của số mệnh chứ không còn là tiếng thở dài của tình yêu khi xa vắng.
Nhớ đầu xuân Đinh Hợi 2007, Trần Quốc Thực được phân công chọn thơ cho số Nguyên tiêu đặc biệt của  ngày hội thơ thường niên. Tôi muốn in bài Thế giới phẳng tặng Nguyễn Trọng Tạo, nhưng Thực lại thích in bài Hà Nội ngũ hành. Anh nói rất nhẹ với tôi: Tôi muốn ghi dấu ấn đích thực của từng nhà thơ mà tôi quý mến. Tôi vừa muốn chiều anh, vừa thấy anh rất thận trọng với thơ. Đó là phẩm chất nhà phê bình khá sắc sảo trong Trần Quốc Thực. Anh viết về thơ người khác không nhiều nhưng đều rất trúng và hay.
Mới thế mà đã âm dương cách biệt. Thật tiếc một tài thơ lặng lẽ như Trần Quốc Thực. Bởi thế, đầu xuân khai bút là bài viết về anh, về tuyển tập thơ Khúc lặng lẽ đang được gia đình và bạn bè anh gấp rút hoàn thành gửi đến bạn đọc, để chúng ta cùng nhớ tiếc một tài thơ vừa vĩnh việt cuộc đời mà anh lặng lẽ hiến dâng niềm yêu mến.
N.T.K
 
Một cuộc đời cống hiến thầm lặng
 
Nhà thơ Phạm Đức
 
Nhờ thơ Trần Quốc Thực sinh ngày 16 tháng 08 năm 1948. Quê ý Yên, Nam Định. 17 tuổi, anh tham gia Thanh niên xung phong, hai năm chuyển sang bộ đội… Đấy là một chặng đường bình thường của một người con trai khi khắp đất nước là bom đạn giặc xâm lược. Từ 1982 - 1986, anh học Trường viết văn Nguyễn Du (khoá II, thuộc Trường Đại hoc văn hoá). Bốn năm sau (1989), tức là lúc 41 tuổi, anh mới in tập thơ đầu tiên: Miền chờ - vẻn vẹn có  19 bài. Những số liệu rất đang suy nghĩ: Vì sao Trần Quốc Thực công bố tác phẩm muộn màng và khó khăn đến vậy?
Anh tâm sự: Nghiệp thơ đến với tôi muộn màng. Có lẽ tại tôi còn mải đi thu gom tàn của những vàng hương tôi vừa hoá để làm màu mỡ thêm miền tôi được thừa tự! Có lẽ tại vì thế chăng? Hay còn bởi những gì huyền bí khác nữa nảy sinh sau mỗi bước hành hương vào Trời đất…. Tâm sự của anh, không thể gọi là giải thích rõ ràng mà chỉ là đưa ta vào cõi mộng ảo, hư hư thực thực, nhuốm rất nhiều sự phiêu diêu trong vùng trời đất của tâm tưởng. Nhưng, phần quan trọng  thấy được là ý thức thiêng liêng hoá cõi thơ; ý thức lao động miệt mài trong câu chữ, hình ảnh, kết cấu, nhịp điệu… Trần Quốc Thực là người có ý thức với nghiệp thơ, có trách nhiệm với nghề thơ, có định hướng với đời thơ mình. Anh khẳng đinh: Một ý tưởng được tôi chăm gom rất lâu, song muốn phát tiết được ra thành câu, thành vần như ý thì lại phải nhờ cậy vào sự dắt dẫn của linh giác bản thân - điều này tưởng như là cảm hứng, song không phải; cảm hứng chỉ là cái được linh giác tích tụ và phát lộ. Theo tôi, ai làm thơ mà chỉ đơn thuần nhờ vào cảm hứng thì sẽ thất bại. Ai làm thơ chỉ nhờ vào ý tưởng cũng thất bại. Điều nói trên không mới lạ. Nhưng quan niệm về một linh giác (theo thiển ý của tôi - đó là giác quan linh thiêng dành cho sự sáng tạo, trong đó có thơ T.Q.T) lại đưa ta trở lại cõi thơ riêng của Trần Quốc Thực.
Trở lên, chỉ gẩy ra một vài quan niệm của nhà thơ Trần Quốc Thực để thấy hai điều; Người thơ này làm thơ một cách tự giác, có lý luận, có lý thuyết kỹ thuật, có phương pháp sáng tạo riêng (hay chí ít là ý tưởng về phương pháp đó); đời thơ của tác giả đáng được nghiên cứu như một mảnh đất còn chứa những bí ẩn, những hoa trái ngọt lành… mà trong bài thơ này, khả năng và thời gian của người viết chưa đủ đáp ứng!
Trở lại với 4 tập của của Trần Quốc Thực cùng một số bài di cảo được gom lại trong tập sách này, có thể thấy một chân dung nhà thơ đầy ưu tư, lặng lẽ men theo những lối mòn của kỷ niệm, những nỗi niềm lăn tăn, vân vi trong chân tình kín đáo, trong rung động li ti, có mà như không…
Trong tuyển tập này, trừ một số bài chưa công bố, nằm trong những trang di cảo ít ỏi của anh, còn đều đã in trong 4 tập thơ (Miền chờ, Nét khắc, Trái tim hoa bìm và Tháp cúc). 4 tập thơ, có tới 3 tập được nhận đến 4 giải thưởng: Giải thưởng Nguyễn Khuyến cho Miền chờ. Giải thưởng của UBTQ các Hội VH NT Việt Nam năm 1995 cho Nét khắc và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, và Hội Nhà văn Hà Nội cho tập Tháp cúc. Như thế đã là một thành tựu thơ đáng vị nể. Thế giới thơ Trần Quốc Thực là khoảng hẹp, chủ yếu trong gia đình. Bà, mẹ, anh, chị, vợ, con gái; thấp thoáng vài nét bạn bè vừa khuất nẻo hay đã chìm trong hoài niệm… Cái giỏi của nhà thơ (nói theo cách của anh, là nhờ sự chăm gom rất lâu và nhờ cậy vào sự dẫn dắt của linh giác bản thể để phát tiết thành câu, thành vần) là nói cái riêng, rất riêng, không lẫn vào bài thơ cùng loại nào, nhưng lại dễ cảm thông, chia sẻ, thấu hiểu dần - nghĩa là lại chung cho nhiều người. Mỗi bài thơ của Trần Quốc Thực có một câu chuyện ẩn giấu phía sau, có một nhân vật mang số phận riêng, có một mảng tâm hồn tác giả thấm vào, có một ý tưởng được gợi mở:  Con đếm trên đầu ngón tay/ Những lần về thăm mẹ/ Như bình ắc - quy sắp hết điện/ Con sắp mất hết mẹ trong người (Tự thú). Vừa là ân hận vì cách xa ít về thăm mẹ, vừa là xót xa, đau đớn đến mòn vẹt, kiệt quệ. Sắp hết mẹ trong người, con chỉ còn là cái vỏ, cái xác vô dụng - như bình ắc - quy hết điện! Mẹ cần thiết, sống còn với đời con biết bao! Mỗi lần về gặp mẹ như được nạp thêm sự sống, sự yêu thương. Nói về tình mẹ con như thế là mới mẻ, nhưng thật dễ hiểu mà lại chứa đựng một câu chuyện nào đó…
Em ngồi đó tôi ngồi đây/ Giữa hai ta một quãng đầy cách xa (Giữa). Đấy là tình  yêu hay xa cách, hay là sự giằng xé, dằn vặt, có lẽ? Đó và đây -như là gần cận, mà thực ra có một quãng đầy cách nhau. Cái thực và cái ảo nhoà vào nhau rồi.
Đặc biệt đáng chú ý trong thơ Trần Quốc Thực là hình ảnh đứa con gái bé bỏng - một nhân vật đầy tâm trạng Con sinh phải cái thời mà các bậc bố mẹ rất hay chia tay nhau/ Những cuộc chia tay thật bẽ bàng, thật khó xử/ Bố với mẹ của con cũng không ra ngoài thông lệ đó/ Kể cũng đáng buồn, song biết chữa cách nào. Một nhân vật mà nhà thơ đau đớn thốt lên trái tim trong trắng, trái tim côi cút/ bố chợt nhận ra một điều to lớn khác/ con gắn bó cuộc đời bằng trái tim bị thương (Con). Xa nghìn trùng bố gọi cho con/ con gái bé bỏng của bố, con gái ốm o của bố, con gái hay dỗi hờn của bố/ tiếng con ngàn ngạt nghe sao mà thương/…/ bố lặng người nghe tiếng con rúc rích cười trong máy/ tiếng cười xa xôi khiến bố ấm lòng (Từ nơi xa xôi). Cô bé đã phải tự hỏi (và chắc là chưa có câu trả lời) về những nổi niềm trắc trở, khó hiểu của thế giới người lớn: Con không hiểu vì lý do gì mà cả nhà không ở đấy nữa/ tại sao chứ, cái sân đẹp thế, con chỉ cần quẳng cặp sách vào nhà, chào ù bố mẹ rồi vọt ra sân chơi với các bạn…. Cô bé nhắc tới nhiều thứ  quen thuộc nơi đó những chiếu chăn quần áo dăng dăng, cái bếp lò buổi chiều bố nhóm, chậu nước ngải cứu/ buổi tối cả nhà ngâm chân, bàn chân con bé tẹo đỏ hồng chen huých chân bố mẹ. Rồi cô bé thốt lên câu hỏi nghẹn lòng: Bố có về với con không?  Bố về ăn Tết với con đi (Cho con).
Khó mà kể hết những câu trong tập thơ có thể giúp ta bước đầu tìm hiểu cái cách Trần Quốc Thực làm cho thơ anh rất riêng, rất cụ thể mà lại cảm thông được tới nhiều người.
Trần Quốc Thực luôn có ý thức tạo nét khắc riêng của thơ mình bằng sự chiêm nghiệm, nghiền ngẫm, tự co mình vào nỗi niềm riêng, tự giày vò và bằng cả sự kỳ khu, tỉ mỉ, gom nhặt, sàng sẩy, chắt lọc trong từng hình ảnh, câu chữ, nhịp điệu. Chọn lọc kỹ, nhưng thơ anh lại không nệ vào bất cứ hình thức thơ nào. Câu thơ theo vần điệu truyền thống, hay ruỗi dài tới 20, 30 chữ, hay chỉ có 1, 2 chữ, miễn là theo kịp nguồn xúc cảm… Rõ ràng, ít nhiều, anh đã tạo ra được một ấn tượng tốt về sự chuyên nghiệp, chuyên tâm với thơ, một nét chuyên biệt trong sáng tạo.
Xin dừng lại ở sự phân tích bài thơ ngắn của anh, bãi Sân trường nghiêng. Con ơi, bố biết mọi cuộc chia tay trời đều định trước/  bố tự nguyện lùi rất xa để mẹ được toàn quyền về con/ bố lặng lẽ đến trường con để được nhìn con từ rất xa, nhìn con rất gần, rồi bố gọi/ con ào đến bố một lúc rồi chạy ra chơi với bạn bè, con chơi với sân trường/ cái sân trường cứ nghiêng nghiêng thế nào ấy trong mắt bố/ sân trường nghiêng nghiêng mà bố không dám hỏi vì sao. Cả phần trên của bài chỉ là chuyện kể với những chi tiết thực bằng những câu thơ dài, ngắn khác nhau; nhưng đến hình ảnh con chơi với sân trường mà cái sân đó cứ nghiêng nghiêng trong mắt bố, thì bài thơ đã tạo một ấn tượng rất mạnh. Có một nỗi đau, nuối tiếc, lo lắng trong lòng người bố. Cái sân trường nghiêng nghiêng là ảo, là siêu thực. Nhưng nó bắt nguồn từ nỗi nghiêg ngả, có thật trong lòng người bố, trong chia lìa, cách trở có thực.
Bài thơ như khô khan, tỉnh táo, nhưng thực sự đã quay cuồng, đảo điên trong nỗi niềm người bố khi người con cứ ngây thơ mà vui vẻ, chơi đùa trước bao nhiêu bất trắc. Cái sân trường nghiêng nghiêng quả là một hình tượng nghệ thuật rất đắt trong khung cảnh thơ này; ví như một nhát chém đang bổ xuống.
***
Trên đây, tôi chỉ xáo xới một đôi nét về phong cách thơ Trần Quốc Thực việc chọn đề tài, trong cách sử dụng cái thực xen với cái ảo, cái thô sơ được tinh hoá trên nền đậm đặc cảm xúc và mang rõ dấu ấn của đời tác giả. Một sự xáo xới còn lỗ đỗ, hời hợt lắm - nhưng ngõ hầu đủ để gợi mở ở đâu đó, ở ai đó sự quan tâm tìm hiểu một vỉa thơ lặng lẽ cống hiến nét khắc riêng - dù có thể nhỏ bé, nhưng thật sự có ấn tượng - trong thơ Việt hiện đại.