Những thành ngữ có xuất xứ từ thơ cổ và điển cố (6)
Nguyễn Ngọc Kiên
Thứ tư ngày 12 tháng 11 năm 2014 4:10 PM
(13) Tan xương nát thịt
“Tan xương nát thịt” là thành ngữ gốc Hán (粉身碎骨) [phẩn thân toái cốt], nghĩa là nghiền vụn xương, làm nát thân mình. Nghĩa bóng: vì một mục đích nào đó hoặc vì nghĩa cả mà liều hi sinh xương thịt không tiếc thân mình.
Thành ngữ “粉身碎骨” có xuất xứ từ bài thơ “石灰吟” [Thạch hôi ngâm] của于谦 (Vu Khiêm) đời Minh. Nguyên tác:
千錘萬擊出深山,
烈火焚燒若等閒。
粉身碎骨全不怕,
要留清白在人間。
(Phiên âm:
Thiên chuỳ vạn kích xuất thâm san,
Liệt hoả phần thiêu nhược đẳng nhàn.
Phẩn thân toái cốt toàn bất phạ,
Yếu lưu thanh bạch tại nhân gian.)
(Đầu đề có bản chép là: “詠石灰” [Vịnh thạch hôi], nghĩa là Vịnh đá vôi. Câu thứ ba là: 粉身碎骨全不顧 [Phẩn thân toái cốt toàn bất cố]).
(Dịch thơ:
Đục tận non xanh lấy đá về
Lửa hồng thiêu đốt có hề chi
Nát thịt xương tan nào có sợ
Chỉ mong thanh bạch tiếng còn ghi.)
Tiếng Việt đã mượn thành ngữ này theo lối mượn ý dịch lời là “tan xương thịt nát thịt”. Ngoài cách hiểu như trên, theo giải thích của Từ điển tiếng Việt, (NXB Đà Nẵng, 2006, tr. 888): “Chết một cách thê thảm. Ví dụ: Dù tan xương nát thịt cũng cam lòng.”
Thành ngữ này thường được sử dụng trong thơ ca, trong đó các từ có thể hoán đổi vị trí cho nhau. Đầu thế kỉ XX, nhà thơ Phạm Tất Đắc đã viết tập thơ “Chiêu hồn nước” bất hủ, gồm 198 câu song thất lục bát, với lời lẽ thống thiết dấy lên lòng yêu nước của người Việt trước cảnh nước mất nhà tan. Bài thơ đã trở thành tài sản vô giá trong kho tàng văn học cách mạng Việt Nam, trong đó có đoạn:
Hồn hỡi Hồn, con Hồng cháu Lạc!
Bấy lâu nay giặc giả chiến tranh,
Bấy lâu thịt nát xương tan,
Bấy lâu tím ruột thâm gan vì Hồn.
(Phạm Tất Đắc – Chiêu hồn nước)
Nhà thơ Tố Hữu cũng đã không dưới hai lần sử dụng thành ngữ này trong các tác phẩm của mình. Chẳng hạn:
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan, thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh...
(Tố Hữu – Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
Đứng lên thân cỏ, thân rơm
Búa liềm không sợ súng gươm bạo tàn!!
Máu có chảy, xương tan thịt nát
Bớ công nông! Tiếng hát càng cao
(Tố Hữu – Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Trong bài thơ sau của Luân Tâm cũng sử dụng thành ngữ “tan xương nát thịt” ở dạng đảo trật tự từ cho phù hợp để diễn tả ý nghĩa “cho dù có thế nào chăng nữa thì cũng không bao giờ sai lời thề ước”:
Ra đi? Hay chỉ là trở về
Thăm lại vườn xưa thăm bờ tre
Cỏ cây còn nhớ chân lưu lạc
Thịt nát xương tan chẳng lỗi thề?
(Luân Tâm – Hoa tàn)
(14) “Phiên vân phúc vũ” (翻云、覆雨)
Thành ngữ “Phiên vân phúc vũ” (翻云、覆雨) là dạng rút gọn của “Phiên thủ vi vân, phúc thủ vi vũ” (翻手为云、覆手为雨). Ý nghĩa của thành ngữ này là chỉ sự thay đổi như chong chóng, không biết đâu mà lần. Nghĩa bóng chỉ những người hay thủ đoạn, phản phúc, lèo lái, đảo điên. Nó có xuất xứ từ bài thơ “贫交行” [Bần giao hành] của 杜甫 (Đỗ Phủ). Nguyên tác:
翻手为云复手雨,
纷纷轻薄何须数。
君不见管鲍贫时交,
此道今人弃如土。
[Phiên âm:
Phiên thủ vi vân, phúc thủ vũ,
Phân phân khinh bạc hà tu sổ ?
Quân bất kiến Quản Bão bần thì giao,
Thử đạo kim nhân khí như thổ.]
(Dịch nghĩa: Nghiêng bàn tay làm mây, úp bàn tay làm mưa. Bọn người khinh bạc cần chi đếm. Bạn chẳng thấy Quản Trọng và Bão Thúc Nha bạn với nhau lúc nghèo. Đạo ấy người đời nay vứt đi như vứt hòn đất)
(Dịch thơ:
Mây mưa tráo trở bàn tay,
Những tuồng khinh bạc đời này biết bao.
Không coi giao nghị Quản Bào,
Mà nay đạo ấy rẻ sao như bùn.)
(Bản dịch của Trần Trọng Kim)
Câu thơ trong bài sử dụng thủ pháp khoa trương đặc sắc: “翻手为云复手雨”, sau biến ra thành ngữ: “翻手为云、覆手为雨” nói rút gọn là “翻云、覆” hàm ý là ngửa bàn tay là mây, úp bàn tay là mưa, với ý nghĩa như đã phân tích ở trên.
Tương tự như “Phiên vân phúc vũ”, tiếng Việt có thành ngữ “sớm nắng chiều mưa”.
Thành ngữ này có thể tả thực, chẳng hạn khi nói về thời tiết Sài Gòn “sớm nắng chiều mưa, Còn giữa trưa thì chỗ mưa chỗ nắng.”
Nó thường được dùng để miêu tả tính khí thất thường của con người nhất là phụ nữ và sử dụng nhiều trong các đầu báo. Chẳng hạn: Sol Campbell: sớm nắng chiều mưa, (Việt báo, 31/7/2006); Bạn gái “sớm nắng chiều mưa” (Vnexpress, 17/10/2013).
Không những thế, “sớm nắng chiều mưa” còn được dùng để biểu thị sự thay đổi, diễn biến thất thường của sự vật. Chẳng hạn: Sớm nắng chiều mưa như… giá dầu, (Thái Nguyên online, 15/01/2009); Giá ớt “sớm nắng chiều mưa” (Tin tức nông nghiệp, 25/4/2014), sau đó được các báo “Công thương điện tử” và “NN thị trường” dẫn lại.
Thành ngữ “sớm nắng chiều mưa” cũng được sử dụng nhiều trong thơ ca.
Chẳng hạn, trong bài thơ sau của Tố Hữu:
Thù bạn đời nay có khác xưa,
Nghĩa tình e sớm nắng chiều mưa ?
Chợ trời thật giả đâu chân lý ?
Hàng hoá lương tâm cũng thiếu thừa ?
(Tố Hữu – Tâm sự)
Hoặc:
Anh đừng về nữa cánh đồng sim
Đã chín lịm nhưng người quên không hái
Em lang thang trong thực tại
Vơ vẩn trách trời sao sớm nắng chiều mưa.
Anh đừng về nữa những buổi chiều thưa
Nắng ngưng chảy bóng mình như mờ ảo
(Thuỳ Dương – Anh đừng về)
Các tác giả cũng thường hay hoán đổi vị trí các từ vì lí do hiệp vần. Chẳng hạn:
Tình em nắng sớm mưa chiều
Tâm em còn có bao nhiêu đường tròn
(Nguyễn Ngọc Kiên – Tình anh và em)
Khi để nói về những người hay thủ đoạn, tráo trở, lật lọng, người Việt cũng dùng thành ngữ “trở mặt như trở bàn tay”…
……………
(còn nữa)