Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Nhìn lại giải thưởng thơ 2011

Đỗ Ngọc Yên
Thứ năm ngày 29 tháng 3 năm 2012 8:44 PM
TNc: Đỗ Ngọc Yên gửi đến trang nhà bài này là góc nhìn khác về Giải thưởng Thơ 2011 của Hội Nhà văn VN. Nhiều góc nhìn có lẽ cho ta thấy toàn diện hơn chăng. Đây là ý kiến riêng có thể không đồng nhất với chủ web

“Hoan ca” và “Ngày linh hương nở sáng” (1) là hai tập thơ vừa nhận được giải thưởng của Hội Nhà văn VN, 2011. Dù trước và sau đấy cũng đã dấy lên những luồng dư luận trái chiều. Nhiều ý kiến của những “người trong cuộc” nghiêng về phía tán đồng, ủng hộ coi đây là một cuộc “bứt phá” của thi ca Việt đương đại, báo hiệu một mùa vàng bội thu. Thế nhưng,...

Thơ Việt đương đại đã hết thời “bĩ cực”?

Sau ba năm giải thưởng Hội Nhà văn vắng bóng thơ (2006- 2009), đến 2011, hai tập thơ “Bầu trời không có mái che” của Mai Văn Phấn và “Sóng và khoảng lặng” (2) của Từ Quốc Hoài đã được Hội Nhà văn trao giải thưởng 2010 và vào năm 2011 hai tập thơ khác là “Hoan ca” của Đỗ Doãn Phương và “Ngày linh hương nở sáng” của Đinh Thị Như Thúy cũng được trao giải tiếp.
Nếu chỉ xét về khía cạnh số lượng tác phẩm đoạt giải hai năm vừa rồi, có ý kiến cho rằng thơ Việt đương đại đã qua thời “bĩ cực” đang chuyển sang thời “thái lai”. Đương nhiên, số lượng tác phẩm đoạt giải hai năm vừa qua lại dường như chưa nói được là bao chất lượng của giải thơ, cũng như sự phát triển của thể loại này. Hơn bất cứ lĩnh vực nào khác, đối với văn chương- nghệ thuật thì bao giờ cũng “quí hồ tinh, bất quí hồ đa”. Nhưng nếu không có tác phẩm nào đoạt giải thì người ta biết lấy gì mà luận bàn, so sánh, biết căn cứ vào đâu mà nói rằng thơ Việt đương đại đang “được” hay “mất” mùa.
Âu đấy cũng là cái lý để các nhà tổ chức, ban giám khảo quyết chọn ra một vài tập thơ nào đấy theo tinh thần “chọn bó đũa lấy cột cờ” theo cách nói của tiền nhân. Còn nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn VN, người phụ trách sáng tác thì khẳng định rằng: “Mai Văn Phấn, Trần Tiến Dũng, Đinh Thị Như Thúy, tôi ấn tượng với ba tác giả này, vì họ thực sự tạo nên một thế giới thi ca mà có những điều cá nhân tôi không làm được” (Theo báo Thể thao- Văn hóa cuối tuần, số Tất niên 2010). Trong ba người mà ông Thiều nhắc tới ở đây, chỉ có Trần Tiến Dũng là chưa đoạt được giải thưởng, hai người còn lại, đã đoạt giải năm 2010 và 2011 vừa qua.
Đọc cả bốn tập thơ được giải, tôi nhận thấy một điều rất rõ là dường như tất cả họ đều có chung một phong cách thơ “phi truyền thống”. Riêng “Bầu trời không mái che” của Mai Văn Phần có vẻ như phong cách gần với truyền thống hơn đôi chút, còn Đỗ Doãn Phương và Đinh Thị Như Thúy có cách nghĩ, lối viết rất xa lạ với thơ truyền thống.
Vì thế có ý kiến cho rằng sở dĩ năm nay trao giải cho hai tập thơ trên, Hội đồng chấm giải có ý định làm một cuộc cách mạng về thi pháp thơ Việt đương đại, để khỏa lấp dư luận về việc ba năm qua thơ đã “mất mùa”, nay cần phải chứng tỏ nó chỉ tạm thời “nghỉ giải lao” vài năm để rồi có những cuộc bứt phá ngoạn mục, đem đến một “mùa bội thu” hơn. Thế nhưng sau vụ mùa ấy, công chúng lại đặt vấn đề nghi ngờ về sự “ bội thu” của thi ca Việt đương đại, khi họ không biết lấy tiêu chí nào để cân đong, đo đếm?   
 
Thơ Việt sẽ đi về đâu?

Theo ý kiến của nhiều người, “Hoan ca” và “Ngày linh hương nở sáng” là hai tập thơ có một số bài đọc được, còn lại phần lớn chỉ ở mức trung bình, thậm chí có những bài chưa thể xếp vào thơ được, xét trên mọi khía canh. Còn nhà thơ Đỗ Hoàng thì gọi đây là hai tập thơ “vô lối”.
Sự “vô lối” đầu tiên thể hiện ở chỗ là cả hai tập thơ không hề có bất cứ một cảm quan gì mới về thực tại, dù chỉ là mô tả về những điều mắt thấy tai nghe bằng ngôn ngữ thi ca hoặc những suy tư triết học. Vẫn là cách chối bỏ thực tại, chối bỏ những “lẽ phải thông thường”, chối bỏ cái không thể chối bỏ được bằng một lối nói dễ dãi, không hề có xúc cảm từ phía chủ thể, cũng không có hình thức thể hiện mới lạ, nên rất khó để có thể truyền dẫn cái hồn của thơ đến với công chúng:
“Đột nhiên không muốn trồng chuối
Cũng bỏ nốt trồng màu
Nơi này không cuốc cày vun xới
Bằng phẳng dải đất ven đê
Chiều, sau khi trẻ đá bóng
Đất bằng ngửa mặt mênh mông
Đón nỗi trống không
Bằng bầu trời”
(Đỗ Doãn Phương- Bãi đất ven đê).
Điều đáng nói là những bài thơ theo lối trẻ em “tập viết” như thế này trong “Hoan ca” của Đỗ Doãn Phương rất phổ biến. Ngay ở bài “Hoan ca về đất” được coi là bài “đinh” trong tập thơ của anh, ta vẫn thấy sự dễ dãi đến lạ thường:
“... Hoa cỏ, gạch đá, bãi rác, hàng cây, hồ ao và xa xa dãy núi
 Đâu là nơi đất đai sẽ bị đào lên khiến mạch nước đứt tung tứa máu
Đâu là nơi mặt đất sẽ mở ra và mím thắt lại
Đâu là nơi cốt nhục ta sẽ hóa đất đời đời?,...”
Có thể nói, ở bài thơ này, người thơ thấy gì nói ấy, không cần chắt lọc, chưng cất, càng không cần sự tham gia của xúc cảm thẩm mỹ, mà chỉ là một lối nói huỵch toẹt cho xong. Vậy mà không ít người lại cho rằng đấy đích thị là những bài thơ có sự “sáng tạo” (!?).
Sự dễ dãi theo kiểu này có vẻ như thưa vắng hơn ở “Ngày linh hương nở sáng” của Đinh Thị Như Thúy. Nhưng cái mà có người gọi sự “điệp” trong thơ Như Thúy dường như đã bị nữ người thơ này sử dụng một cách bừa phứa đến mức trở thành lạm dụng, khiến người đọc chỉ có thể cảm nhận được hoặc là Như Thúy cố tình tạo nên một phong cách thơ“độc đáo” cho riêng mình, mà không ý thức được rằng sự đáo đáo quá đà chỉ cách sự lập dị chưa đầy một sợi chỉ, hoặc là chị thiếu vốn từ, nên buộc phải diễn đạt như vậy. Ta hãy đọc bài “Và bản nhạc ấy” để kiểm chứng:
“...Và đêm tối
Và thời khắc ấy
Và bản nhạc ấy
Và cánh cửa ấy
Đã mở
...
Và gió đã thổi qua những ống xương rỗng tuếch
Những ống xương lạnh tê buốt nhức
Những mỏi mê đã dìu dặt vang ngân
Và sóng đã từng đợt man dại tràn dâng
Và gió đã thổi qua những ống xương rỗng tuếch
Những ống xương lạnh tê buốt nhức
Những mỏi mê đã dìu dặt vang ngân
...Và hải âu với những tiếng kêu sắc nhọn
...Và những linh hồn chợt giãy giụa
Và những chong chóng chợt túa bay
Và tuyết của một nghìn năm trước
...
Là tiếng mọt nghiến
Là tiếng chó sủa ma
Là tiếng u hoài gió đi qua cây lá
Là hương của tất cả loài hoa
Là nặng trĩu não nề u ẩn
Là hoảng hốt
Là trì níu
Là chảy trôi
Là hạnh phúc
Là chia ly
...
Là cơn lốc xoáy tung
...Và những linh hồn những chong chóng những tuyết
Những mềm mại sững sờ tê buốt
Mải miết xoay
Mải miết tán loạn cuồng điên
...Và vòng xoáy của giai điệu chợt dừng
...
Trong khoảnh khắc sáng lòa lặng phắc
... Trong im bặt
...
Tất cả những sợi tóc nhất loạt đổi màu
Tất cả những con mắt nhất loạt mờ
Tất cả những tâm hồn nhất loạt trống rỗng
Tất cả những đời sống nhất loạt già đi”.
Xin miễn bàn về nội dung cũng như hình thức thể hiện của bài thơ trên. Chỉ biết rằng, trong một bài thơ mà có đến nhường ấy từ lặp lại, từ nào ít cũng là hai lần, nhiều có tới cả chục lần, thậm chí trong một câu thơ có từ lặp lại đến ba lần: “Và những linh hồn những chong chóng những tuyết” (3), mà chẳng hề nói lên điều gì, cũng như không tạo thêm được mảy may một chút xúc cảm thẩm mỹ cho hình tượng thơ, ngược lại chỉ khiến người đọc cảm thấy mệt mỏi vì sự “vô lối” của tác giả.
Tôi thật sự khó hiểu những bài thơ như vậy lại được khá nhiều người tán dương sự “sáng tạo” và cho rằng đấy là đại diện cho xu hướng thơ trẻ Việt đương đại. Chẳng lẽ thơ trẻ Việt đương đại chỉ có mỗi một con đường là đi vào ngõ cụt của sự dễ dãi và lặp lại, hay là sự cố tình “rối rắm hóa” đến mức tắc tị khiến ai đó ngộ nhận rằng đấy mới chính là sự “cách tân” đích thực của thơ Việt đương đại?
 
-----------------
 
 (1) “Hoan ca”, tập thơ của Đỗ Doãn Phương, Nxb Hội Nhà văn, H, 2011; “Ngày linh hương nở sáng”, tập thơ của Đinh Thị Như Thúy, Nxb Hội Nhà văn, H, 2011.
(2)  “Bầu trời không có mái che”, tập thơ của Mai Văn Phấn, Nxb Hội Nhà văn, H 2010; “Sóng và khoảng lặng” tập thơ của Từ Quốc Hoài, Nxb Văn học, H, 2010.
(3) Những chữ in nghiêng, đậm trích trong bài “Và bản nhạc