Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

BƯỚC ĐẦU SUY NGHĨ VỀ VĂN HỌC MẠC

Gs Nguyễn Huệ Chi
Thứ tư ngày 15 tháng 6 năm 2011 6:00 PM

*  Nhà thơ Lê Hoài Nguyên:  Đây là bài trả lời phỏng vấn của Gs Nguyễn Huệ Chi cho ông khi quay bộ phim tài liệu lịch sử 5 tập Tiếng kèn Nhà Mạc. Một phần bài đã được dựng vào phim. Nay ông xin phép Gs Nguyễn Huệ Chi cho gỡ băng ra và công bố toàn bài.


Nói về văn học Mạc, theo tôi phải giới thuyết xem văn học thời Mạc là cái gì? Tôi nghĩ có mấy giới thuyết như thế này.
Trước hết về thời gian, nhà Mạc bắt đầu từ năm 1527 kéo dài đến mãi 1677 thì mới chấm dứt, thế nhưng lại có hai giai đoạn: Giai đoạn 1527-1592 nhà Mạc đóng đô ở Thăng Long và sau đó họ Trịnh đem binh ra và họ Mạc phải lên Cao Bằng. Tôi nghĩ về mặt thời gian ta nên khuôn lại khoảng thời gian từ 1527 đến 1592, lúc bấy giờ sĩ tử quy tụ về Thăng Long rất nhiều mới làm nên văn học Mạc.
Xét về không gian thì chúng ta thấy rằng thời đại này không phải chỉ có một trung tâm Thăng Long nữa mà đã có Nguyễn Hoàng chạy vào Nam, đã có Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm trung hưng nhà Lê ở Thanh Hoá cho nên nó chia làm mấy trung tâm. Thế thì nói văn học thời đại Mạc, văn học ấy khuôn trong cái không gian trong phạm vi quản lý của nhà Mạc chứ còn có những ông như Phùng Khắc Khoan. Mặc dù là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm nhưng sau đó vào Thanh Hoá thi với nhà Lê và sáng tác dưới sự chỉ đạo của triều đình Lê thì Phùng Khắc Khoan không thể coi là văn học thời đại Mạc. Xét về lực lượng sáng tác thì có mấy hiện tượng như thế này.
Hiện tượng thứ nhất là khi Mạc Đăng Dung lên thì sức hút của Mạc Đăng Dung rất lớn cho nên rất nhiều gấn như tất cả quan lại của nhà Lê cũ đều quay sang thần phục Mạc và sáng tác dưới triều đại Mạc. Những ông như Nguyễn Giản Thanh là Trạng nguyên cũng trở thành vị quan lớn trong triều đình Mạc. Vì vậy lực lượng ấy cũng phải coi là lực lượng sáng tác của triều đại Mạc. Về cuối nhà Mạc thì có những ông khi mà nhà Mạc chạy lên Cao Bằng rồi lại quay sang thờ Lê mà ông ấy làm quan với nhà Mạc rất là to như là ông Hoàng Sĩ Khải. Thế nhưng mình không thể coi ông ấy là nhà văn của nhà Lê được mà nhất định ông ấy cũng là nhà văn của nhà Mạc và đồng thời là nhà văn của nhà Lê. Xét về lực lượng sáng tác ta thấy có một giới thuyết như thế. Thế nhưng mà lực lượng chính làm nên văn học triều đại Mạc theo tôi là lực lượng những nho sĩ đã thi đỗ dưới triều đình Mạc và lực lượng này rất đông. Từ năm 1527 đến 1592 Mạc đã mở 21 khoa thi Hội lấy đỗ 468 tiến sĩ và 11 trạng nguyên. Nếu như so sánh với triều Lê sơ thì chúng ta thấy dưới thời Hồng Đức trong vòng 38 năm có 12 kỳ thi 501 tiến sĩ và 9 trạng nguyên. Thế cho nên trong 65 năm của nhà Mạc và ngót 50 năm của triều Lê Thánh Tông thì nhà Mạc không thua kém gì về phương diện đào tạo các trí thức cho triều đình và những trí thức ấy mới làm nên nền văn học chủ chốt của văn học Mạc chứ ta không thể nói những nho sĩ ở trong dân gian sáng tác mà thành phần chính của văn học triều đại Mạc được. Ở triều đại Mạc có hiện tượng này khác trước tức là anh trí thức thi đỗ đại khoa như thế nhưng lại phân ra làm hai. Một bộ phận ở lại triều đình làm quan với nhà Mạc và sáng tác. Một bộ phận khác không ở lại triều đình mà về ở ẩn ở làng quê và làm thành lớp nho sĩ gọi là nho sĩ ẩn dật. Cho nên có hai thành phần làm nên văn học Mạc là thành phần nho sĩ quan liêu và thành phần nho sĩ ẩn dật. Theo tôi lực lượng sáng tác làm nên nền văn học Mạc tập trung vào hai lực lượng ấy. Nếu như nhìn vào con số ấy thì chúng ta có thể nói 65 năm của nhà Mạc hoàn toàn không kém gì một thế kỷ của triều đại Lê sơ. Chúng ta không dám so sánh với thời Lý-Trần là một thời đặc biệt rực rỡ đến triều đại Lê sơ, triều đại mà lấy nho học làm độc tôn thì một thế kỷ của triều đại Lê sơ và 65 năm của nhà Mạc thì nhà Mạc không thua gì. Tôi cho đó là nhận định mấu chốt. Thế nhưng nhà Mạc có một thiệt thòi là sau đó bị đám triều thần nhà Lê rất bảo thủ cố gắng phục hưng nhà Lê và đánh bại nhà Mạc lên chấp chinh, trong đó có rất nhiều sử quan. Những chính khách nhà Lê không coi nhà Mạc là chính thống họ cố tình xoá bỏ những thành tựu của nhà Mạc trong đó có cả thành tựu văn học. Thứ hai là những sử quan của triều đại Lê viết về nhà Mạc viết được không đến nơi đến chốn cho nên thơ văn, học giả, tác gia của triều đại Mạc còn lại trong sử sách không thể nhiều như con số dưới triều Lê sơ. Đấy là một thiệt thòi. Tuy nhiên nhìn lại chúng ta thấy triều đại Lê sơ cũng không còn lại bao nhiêu người, có Lý Tử Tấn, Phan Phu Tiên, Thái Thuận, có 28 vị tao đàn nhị thập bát tú. Nhưng nhìn chung để chúng ta có thể nhìn thấy được giá trị thì nổi bật lên có 3 người thôi. Đó là một Nguyễn Trãi như đỉnh cao của nửa đầu thế kỷ XV. Một Lê Thánh Tông như đỉnh cao của cuối thế kỷ XV. Một Thái Thuận như người vắt từ thế kỷ XV sang đầu thế kỷ XVI. Triều Lê sơ cũng chỉ có thế thôi. Triều Mạc cũng có một loạt những văn nhân rất nổi tiếng như Nguyễn Giản Thanh có bài Phụng thành xuân sắc phú, mặc dù ông sáng tác dưới triều Lê sơ nhưng sang làm quan với nhà Mạc đương nhiên tác phẩm ấy ca ngợi thành phụng của nhà Mạc. Ông lại còn có bộ Thương Côn châu ngọc tập mà bây giờ không còn nữa. Bùi Vịnh đỗ Bảng nhãn năm 1532 có Đế đô hình thăng phú, Cung Trung bảo huấn. Lê Quang Bí đỗ tiến sĩ năm 1526 và ra làm quan với nhà Mạc rồi đi sứ Trung Quốc, bị lưu đày ở Trung Quốc 18 năm. Trong suốt thời gian ở Trung Quốc ông ngồi ngẫm nghĩ lại tất cả những nhân vật lịch sử làm thành một tập thơ Vịnh sử. Đây là một tập thơ lớn của thời Mạc. Có người cũng nổi danh là Giáp Hải Trạng nguyên làng Dĩnh Kế. Ông có hai thành tích lớn. Đó là dùng thơ lên Mục Nam Quan đối đáp với tướng của nhà Minh là Mao Bá Ôn. Bằng bài thơ Vịnh Bèo, Giáp Hải đã làm cho Mao Bá Ôn thấy rằng nhân tài nước nam còn nhiều, cuối cùng Mao Bá Ôn lui binh. Giáp Hải có một tập thơ là Ứng đáp bang giao tập là một tập hợp các công trình về bang giao của thời Mạc lại. Đây là một sách rất đáng quý. Nguyễn Hàng, một người đỗ đạt rất cao nhưng ông không làm quan cho nhà Mạc mà về ở ẩn. Tuy nhiên ông cũng không theo những kẻ chống Mạc. Từ chỗ ở ẩn lập thành một văn phái gọi là văn phái làm phú nôm. Ông trở thành ông tổ của phú nôm đời Mạc với nhiều bài phú rất hay như: Tịch cư ninh thể phú, Đại đồng phong cảnh phú, Tam ngung độc phú…
    Có Hoàng sỹ Khải đậu tiến sĩ 1544 có đến mấy tập thơ rất lớn như Sứ Bắc quốc ngữ tập, Sứ tình khúc, Tiểu đồng lạc phú, Tứ thời khúc vịnh. Hoàng Sĩ Khải là một nhà văn lớn. Chính Hoàng Sỹ Khải là người mở đầu cho việc làm thơ Nôm khi đi sứ. Nếu so sánh những nhà văn bình thường của Lê sơ với những nhà văn hạng trung của thời Mạc thì những nhà văn thời Mạc không kém gì những nhà văn hạng trung ấy của thời Lê sơ. Văn học thời Mạc từ một cái nền như vậy đã kết tinh được hai đỉnh kiệt xuất.
Đỉnh thứ nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông là một nhà văn hoá tầm vóc của ông không thua kém Nguyễn Trãi mà phần nào đấy còn đi sâu hơn. Bởi ông nghiên cứu triết lý, dịch học. Chính ông xây dựng nền tảng của tư tưởng biện chứng mở ra cho một thời đại mới trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Ông là một nhà dịch học nên ông nổi tiếng là một nhà tiên tri thế nhưng ông lại là một nhà thơ lớn. Ông viết ra một nghìn bài thơ chữ Hán. Đây là con số mà thời đại Mạc trở về trước hoàn toàn chưa có. Bởi như Nguyễn Trãi cũng chỉ có 105 bài thơ chữ Hán mà thôi. Lê Thánh Tông tuy rất lớn nhưng số lượng so với 1000 bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn thua xa. Chính ông lại có đến 1000 bài thơ chữ Nôm. Thơ Nôm ông rất hay không kém gì thơ Nguyễn Trãi mà có bước phát triển so với thơ Nguyễn Trãi. Rất may mắn cho chúng ta hiện nay đã tìm được khoảng 800 bài thơ chữ Hán, 180 bài thơ chữ Nôm.Đây là một đỉnh rất cao rất chói lọi của văn học triều đại Mạc. 
Đỉnh thứ hai là Nguyễn Dữ. Ông lại là một người ở ẩn không ra làm quan mặc dù thi đỗ Hương cống và là học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong thời kỳ ở ẩn ông đã viết được một tập truyện xuất sắc. Đó là Truyền kỳ mạn lục được đời sau gọi là thiên cổ kỳ bút, ngọn bút kỳ tài nghìn thu không có.
Như vậy Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ là hai đỉnh cao của văn học thế kỷ XVI, của văn học Mạc không thua kém đỉnh nào từ trước cho đến đấy và từ đấy về sau. Đứng về mặt khái quát chung, văn học triều đại Mạc là một nền văn học không nhỏ, nó xứng đáng đóng một vai trò đáng kể trong lịch sử văn học Việt Nam.
Đặc điểm của văn học triều đại Mạc.
Ở đây chúng ta chỉ nói đến những cái mới của văn học triều đại Mạc, những đặc điểm của văn học truyền thống như: phát huy tinh thần yêu nước thì văn học triều đại Mạc không kém về phương diện yêu nước so với các triều đại trước mà lại được nghệ thuật hoá bằng hình tượng nghệ thuật trong tập truyện của Nguyễn Dữ. Đó là truyện Chức phán sự đền Tản Viên là sự đấu tranh rất kiên cường để giành lại vị trí cho ông Tản Viên người Việt chống lại anh ma của bộ tướng Liễu Thăng đã chết trận và cuối cùng là giành cái đền của ông Tản Viên này. Rõ ràng đây là một truyện yêu nước. Hay như truyện Lệ Nương nói cả quá trình giặc Minh sang xâm lược cuối cùng con cháu của người yêu Lệ Nương đã vào đầu quân cho Lê Lợi làm nên công tích cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Như vậy vẫn tiếp tục có dòng văn học yêu nước .
Không những vậy văn học triều Mạc vẫn có và phát triển dòng văn học mang âm hưởng sử ca.
Thế nhưng chúng ta phải nói đến mấy điểm mới của văn học triều Mạc:
Thứ nhất: nó có một bước ngoặt thật sự từ thế kỷ XVI trở đi, bước ngoặt ấy rơi đúng vào văn học triều đại Mạc. Đây là cái ngẫu nhiên mà cũng là cái tất yếu của lịch sử. Thời đại Lê sơ phải chọn một vị vua lên làm biểu tượng và phải tôn thờ vị vua ấy cho nên đặc điêm chung của văn học là hướng thượng phải quay nhìn lên ông vua và lấy ông vua ấy ra làm mẫu mực đem cảm hứng vua sáng tôi hiền kết nối thành động lực sáng tác. Đến triều đại Mạc sau bao nhiêu đợt vua quỷ vua lợn của triều Lê sơ làm cho người ta chán nản, tự nhiên trong nhận thức hình tượng rất cao là ông vua dã bị hạ thâp ở trong tiềm thức và làm cho người ta thấy bây giờ mình không ngẩng lên để thờ ông vua nữa trong sáng tác của mình. Đấy là một đặc điểm. Việc không hướng thượng như vậy phải nhìn xuống. Bắt đầu nhìn xuống hạ dân và có một cái nhìn mới.Đó là nhìn thấy con người hiện ra với bao nhiêu sự phức tạp: thánh thiện cũng như sự tầm thường của con người. Con người hiện ra với những dục vọng thấp hèn, những cao cả, những tình cảm riêng tư, những cá nhân. Đó chính là một phát hiện lớn của văn học thời đại này, mở đầu cho một dòng văn học hiện thực. Đây là nền văn học từ chỗ mô tả xã hội dưới góc nhìn đời tư và đời thường. Đó chính là cái mới chứ trước đây cái xã hội được đánh bóng lên, được ước lệ hoá, được công thức hoá, được mỹ hoá thành một xã hội chung chung đâu cũng như nhau. Nhưng bây giờ nhìn vào khía cạnh đời tư và đời thường thì xã hội ấy hiện ra với muôn hình vạn trạng nên nó đưa lại cho nhận thức đưa lại cho thẩm mỹ rất nhiều giá trị mà chúng ta thấy rõ nhất trong tập truyện ngắn kiệt tác của Nguyễn Dữ. Đó là truyện Người nghĩa phụ ở Khoái Châu nói rõ Trọng Quỳ là con nhà danh giá nhưng bị tha hoá trở thành một anh đánh bạc. Đánh bạc phải bán vợ khiến vợ chết. Hay Người con gái đất Nam Xương nói đến một anh ghen tuông. Vì ghen tuông đến nỗi vợ phải trẫm mình. Đấy là bao nhiêu bi kịch của đời tư và đời thường hiện ra dưới ngòi bút mà đời trước hoàn toàn không có.
Ngoài ra do chỗ nhìn vào hạ dân ấy phát hiện ra xã hội. Đó là một xã hội phức tạp. Nó không thuần nhất là xã hội nông nghiệp nữa mà bắt đầu xã hội có buôn bán, có thủ công có làm giàu dĩ nhiên trong đó có dục vọng, có cuộc đấu tranh giữa quyền lực và không có quyên lực, giữa ham muốn và bất lực. Đó là cuộc đấu tranh về đạo đức giữa cái thiện và cái ác. Đấy là một xã hội phong phú hơn nhiều so với bức tranh xã hội thời Lê sơ mà văn học thời Lê sơ để lại.
Tính quy định thời đại này của văn học mà chúng ta thấy hiện ra rất rõ ở Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ cũng chuyển sang thơ, làm cho thơ có một hình thức tư duy mới. Đó là tư duy thế sự. Trước đây thơ là thơ trữ tình. Thơ bây giờ cũng là thơ trữ tình nhưng mà trữ tình lý trí. Nó mang hình thức không phải là tư duy cảm tính mà là tư duy lý tính, nhìn thẳng vào xã hội nên gọi là tư duy thế sự. Bởi vậy thơ có tính phát hiện, hiện thực rất đáng kể mà cây bút tiêu biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Ở thế làm chi cười lẫn nhau
Giàu chê khó, khó chê giàu
Người hàng thịt nguýt người hàng cá
Đứa bán bò dèm đứa bán trâu
Bé vú thở than người cả vú
Ít râu ánh hỏi kẻ nhiều râu”
Ở đây chúng ta thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm viết khác Nguyễn Trãi. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn sâu vào các ngóc ngách của xã hội để thấy bức tranh phức tạp của xã hội mà bức tranh ấy diễn ra một cách tự nhiên bởi nó là bức tranh xã hội có thực.
Vì tư duy thế sự nên nhìn sâu được vào tâm lý con người rất sâu:
“Thớt có tanh tao ruồi dạo dạm miệng
Ang không mật mỡ kiến đen thân
Ruột hèn nếu cắt thì đau ruột
Chân đạp nhơ nào nỡ dẫm chân”
“Còn bạc còn tiền còn đệ tử
Hết cơm hết rượu hết ông tôi”
Điểm thứ ba là do cái nhìn thế sự, do cái nhìn tâm lý sâu sắc như thế, do xã hội phức tạp có công, có thương, buôn bán phát triển nên vai trò đồng tiền nổi bật lên. Đây chính là giai đoạn bắt đầu nói đến vai trò của đồng tiền. Chính Nguyễn Bỉnh Khiêm nói thẳng vai trò của đồng tiền:
“Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền”
Chúng ta thấy đồng tiền hiện ra với sắc thái khinh người. Sắc thái có thể làm tha hoá xã hội. Nhưng bên cạnh đó nó cũng có mặt tích cực mà Nguyễn Bỉnh Khiêm có nói đến. Trong Nguyễn Dữ, Trọng Quỳ vì đánh bạc mà phải gán vợ rõ ràng vai trò của đồng tiền đã rất lớn.
Một đặc điểm nữa của văn học thời Mạc mà chúng ta thấy là nó đa thanh không có một giọng. Phải là giai đoạn có một bậc thánh minh mà mình ngưỡng lên nhìn thì mới là văn học một giọng. Còn bây giờ bậc thánh minh đã được hạ xuống rồi và con người nhìn cuộc đời bằng cái nhìn bình đẳng, nhìn tự chủ, nhìn vào cuộc đời thì không còn văn học một giọng nữa mà giọng của đối thoại. Tính đối thoại cho ta thấy màu sắc dân chủ chính triều đại Mạc mang lại cho văn học. Trong Truyền Kỳ Mạn lục, Hồ Tông Thốc khi đi sứ sang Trung Quốc ghé đền Hạng Vũ làm một bài thơ có ý chê trách Hạng Vương năm năm ngang dọc cuối cùng phải chết. Đêm đó bộ hạ của Hạng Vũ mới lên triệu ông này xuống. Thế nhưng không phải triều xuống để trừng phạt như là các truyện dân gian khác mà là truyện xuống để tổ chức cuộc đối thoại giữa Hạng Vũ với Hồ Tông Thốc. Trong khi Hạng Vũ ca ngợi mình khẳng định mình đã làm nên nhiều nghiệp lớn không kém gì Hán thì Hồ Tông Thốc chỉ nhận có một điểm thôi. Ông làm được rất nhiều chuyện nhưng chuyện chữ nhân thì ông thiếu. Chính cái đó là cái thiếu lớn nhất và làm cho ông sụp đổ. Có một người bộ hạ của Hạng Vũ thì lại bàn thêm mà nói rằng: nói thế thì sự thực ra Hán Cao Tổ chưa là cái gì cả bởi vì Hán Cao Tổ đã giết rất nhiều nhân mạng và tàn bạo còn Hạng Vương còn được Ngu Cơ tuẫn tiết theo mình nghĩa là còn có người yêu mình đến cùng. Cuối cùng Hồ Tông Thốc mới nói đúng phải. Phải nhìn như thế mới thật là đúng. Rõ ràng ở đây là một sự đối thoại dân chủ và tìm ra chân lý trong sự đối thoại ấy. Đây chính là một cống hiến của văn học thời Mạc.
Một đặc điểm cuối cùng mà chúng ta có thể nói về văn học thời Mạc. Thời đại Mạc đã tạo nên hình tượng một con người tự do. Ở thời đại Lê sơ vì lực hút của triều đình phong kiến nho giáo độc tôn mạnh cho nên gần như hút về tâm. Đến một Nguyễn Trãi vĩ đại như thế mà khi bị ruồng rẫy để về Côn Sơn bao giờ cũng chỉ có lòng đau đáu nghĩ đến triều đình hễ được vời ra thì ra lại ngay. Đến thế kỷ XVIII thì có một hiện tượng ngược lại là người ta bỏ chạy khỏi triều đình, bỏ chạy để về sống chỉ có mình mà thôi. Đây là thời đại ly tâm. Ở thời đại Mạc thế kỷ XVI lại khác, người ta không bị hút về tâm nữa nhưng cũng không hẳn ly tâm tạo nên chính sự tự chủ cho chính mình. Mình muốn ra thì ra, muốn về thì về mà biểu tượng rất rõ là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm ra thi rồi sau 7 năm ông thấy rằng cần phải về thì ông về chứ triều đại Mạc lúc bấy giờ chưa suy thoái gì cả. Ông về một thời gian ông lại ra giúp. Chính nó đã tạo nên tiếng nói tự do, tự tại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và thơ của rất nhiều người như Nguyễn Hàng, Nguyễn Dữ… Dòng tư duy tự do tự tại ấy tạo nên hình tượng con người không bị lệ thuộc nữa mà là con người tự do. Bởi vậy chúng ta phải thấy rằng trong  cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có cái mặt gọi là mặt tự tại. Nhàn ở đây không phải là ẩn bởi xã hội thối nát đến mức mình không thể chấp nhận được mà mình phải vùi đầu về trong hoa cúc, hoặc là trong cửa thiền, hoặc là trong cái thú vui nào đấy. Nhàn bởi mình cảm thấy mình phải làm chủ cuộc sống của mình cho nên mình trở về mình nghỉ. Nhưng khi nhà Mạc phải đánh bọn phản loạn thì ông lại ra giúp rất tích cực. Cho nên nhàn ở đây là nhàn tự tại. Nhàn tự tại chính là cái nét khác với nhàn ở nhiều thời đại khác là thứ nhàn chỉ muốn lánh đục, lánh triều đình về ở ẩn mà thôi.
Trên đây là đặc điểm về mặt nội dung của văn học triều đại Mạc. Bây giờ chúng ta sẽ nói đến đặc điểm về mặt nghệ thuật của văn học triều đại Mạc. Thời đại Mạc là một thời đại có tiếp nối. Thơ Nôm đến Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự tiếp nối Nguyễn Trãi và nâng lên rất cao. Thơ Hán có những thể tài mà Nguyễn Bỉnh Khiêm làm một bài dài đến 300 câu như bài Thương loạn. Như vậy thơ chữ Hán cũng có sự phát triển. Bên cạnh đó truyện ngắn đã được kết tinh từ những tập truyện ban đầu thời Lý-Trần rồi đến thời Lê, đến thời Mạc đã hình thành nên một tập truyện cổ điển gọi là Truyền kỳ mạn lục có hình thức có thể so sánh với những truyện truyền kỳ ở phương Đông. Ngoài ra chúng ta thấy phú Nôm đặc biệt phát triển. Phú Nôm bây giờ không có giọng khoa trương, trang trọng ca ngợi đáng chí tôn mà có giọng bình dân, bình dị trào lộng. Đây là ngôn ngữ của dân gian được bác học hoá nên phú Nôm ấy mới đánh dấu bước chuyển lớn của ngôn từ tiếng Việt trong văn học Việt Nam. Ngoài phú Nôm, chúng ta thấy còn có những tập truyện dài, truyện Nôm đã bắt đầu xuất hiện mà có một tập Tô Công phụng sứ. Đây là một tập truyện mà ta có thể xác định nó xuất hiện vào thời Mạc. Bởi có hiện tượng Lê Quang Bí đi sứ đến 18 năm mới về. Tập truyện Nôm này kể về một nhân vật Trung Hoa đời Hán cũng đi sứ đến 19 năm. Tập truyện này có khả năng ra đời ở triều đại Mạc. Nhưng đây là truyện Nôm dưới hình thức Đường luật chứ chưa có truyện Nôm dưới hình thức lục bát. Lục bát và song thất lục bát đã xuất hiện bởi vì Hoàng Sĩ Khải đã có cả một bài Tứ thời khúc vịnh bằng song thất lục bát…
Như vậy về thể loại thời Mạc có những bước tiến, có những đóng góp rõ ràng.
Nói chung, với những nguồn tư liệu mới được phát hiện, với các phương pháp nghiên cứu lịch sử, văn học mới, với những đổi mới về cách đánh giá Vương triều Mạc trong tiến trình lịch sử Việt Nam, văn học thời Mạc cần được xem xét độc lập là một thời đại văn học để lại đáng kể cả về số lượng cũng như thành tựu nội dung và nghệ thuật. Đặc biệt văn học thời Mạc đã nảy nở những yếu tố chuyển biến của văn học dân tộc sang một giai đoạn mới với sự hình thành và khẳng định vai trò của chủ nghĩa hiện thực.
Tuy nhiên, do biến động của thời đại, do sự đối xử hẹp hòi của nhà Lê trung hưng sau đó, do sự nghèo nàn về tư liệu, sự thụ động của nhiều nhà nghiên cứu văn học hiện tại, Văn học Mạc đã bị đối xử không công bằng, chưa được xếp đúng vị trí của nó trong các Giáo trình, sách giáo khoa, công trình khảo cứu văn học...
Tôi nghĩ cùng với sự đổi mới về cách đáng giá nhà Mạc của Đảng, Nhà nước, của giới sử học nước nhà, giới nghiên cứu văn học còn có nhiều việc phải làm để khôi phục diện mạo cho văn học thời Mạc và xem xét các giá trị của nó đối với tiến trình phát triển của nền văn học dân Việt Nam.

 Tháng 6 – 2009