Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

VĂN HỌC CỨU ĐƯỢC NGƯỜI MÙ

Đàm Quỳnh Ngọc
Thứ tư ngày 2 tháng 3 năm 2011 9:41 PM
 
Cuối năm 2010, tôi lên Miền tây Xứ Nghệ tham dự sinh hoạt nghề nghiệp của Câu lạc bộ Văn học Nghệ thuật của thị xã Thái Hòa, huyện Nghĩa Đàn. Trong báo cáo của câu lạc bộ có nhắc nhiều lần đến anh Nguyễn Trung Thành, hội viên Hội văn học Nghệ thuật Nghệ An, phó chủ tịch Hội người mù Thị xã Thái hòa đạt tới ba giải thưởng về văn học năm 2010: Giải c về Tiểu thuyết Nẻo khuất của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật toàn quốc, Giải đặc biệt cuộc thi Nguồn sáng đời tôi của Trung ương Hội người mù tổ chức, Giải đặc biệt cuộc thi Vượt lên số phận của Tạp chí Thanh niên trao tặng…
    Tôi không bất ngờ khi gặp lại anh Thành, cũng không bất ngờ khi biết anh đạt nhiều giải thưởng Văn học trong một năm, bởi quen biết anh cũng đã lâu, lại làm việc ở hội VHNT tỉnh. Tôi chỉ bất ngờ khi anh mời tôi về nhà, và ngạc nhiên khi thấy ngôi nhà nhỏ nhắn, vững chắc, sạch sẽ của anh ở Thị xã Thái hòa rất xinh, trang trí cũng đẹp với nhiều sách, báo, tức thì tôi bật ra câu hỏi:
-Chúc mừng anh đã có ngôi nhà đẹp. Nhà từ thiện nào đã giúp anh có ngôi nhà này vây?
     Tôi hỏi thế, vì không biết nguồn thu của gia đình anh từ đâu? Anh mù mắt, vợ không có việc làm ổn định, chỉ mò cua, bắt ốc, thu mua đồng nát, bốn người con đang tuổi ăn, tuổi lớn, lo học hành, nguồn thu nào mà anh có ngôi nhà này?
Anh Thành cười sang sảng và câu trả lời dứt khoát của anh làm tôi…choáng:
-Không có nhà từ thiện nào cho tôi cả. Ngôi nhà này tôi làm được từ nhuận bút đấy.
     Trong giới văn nghệ sĩ tỉnh Nghệ An, tôi chưa nghe ai nói sống được từ nhuận bút, nói gì đến việc làm nhà. Thế mà một người mù mắt từ năm chưa đến tuổi đôi mươi đã làm được điều ấy. Thực tế ra sao…?
     Anh Nguyễn Trung Thành sinh năm 1959 tại xã Nghi Xuân, huyện Nghi lộc, tỉnh Nghệ An bị mù mắt những năm còn là học sinh trường làng trong một lần bị sức ép do bom từ máy bay giặc Mỹ ném xuống ngôi nhà đang sinh sống. Sức mạnh của bom đã vùi anh trong đất cát, máy bay đã cút, xóm nhỏ ven biển vang lên tiếng khóc tang thương.  Anh Thành sống sót là điều kỳ diệu, nhưng cũng từ ngày ấy, mắt anh tự nhiên cứ kém dần, hai năm sau thì mù hẳn, không thể đến trường được nữa. Anh khóc, nếu biết trước sức ép của bom làm anh trở thành kẻ mù lòa khuyết tật thì thà chết còn hơn, sống làm gì khi cuộc sống quanh mình chỉ một màu đen tối. Gia đình neo đơn, vốn đã nghèo lại càng nghèo hơn khi mất hẳn một sức lao động là anh, trở thành kẻ ăn bám, nặng gánh cho người thân. Không có người dẫn dắt vào mỗi ban mai để đến trường, anh bỏ học. Sáng sớm tỉnh dậy, theo thói quen anh cuống quýt mò mẫm ôm sách vào hông, mò mẫm ra ngõ nghe tiếng bạn bè ríu rít đến trường, nước mắt tràn ướt hàng mi, nước mắt lăn vào miệng, lần đầu tiên anh được biết vị mặn chát của nước mắt, của cuộc đời.
      Nhà vắng hoe, anh suốt ngày ngồi trước cửa nhà lần giở những quyển vở để rờ rẫm từng con chữ, nước mắt lã chã rơi, trước mắt là khoảng không gian tối mịt mùng, vô tận, mệt mỏi quá tựa lưng vào bờ vách để hồi tưởng về những quyến sách đã từng đọc qua: Những người khốn khổ của Vích to Huy gô, Đỏ và đen của Xtangden, Chiến tranh và hòa bình của Tônxtôi, Tình yêu thời thổ tả của Mắc két, Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng..anh nhớ, rì rầm nói chuyện, hai bàn tay quờ quạng trên từng trang sách. Người nhà tưởng anh điên, khóc cười bất chợt, đành phải tìm việc cho anh làm xoa dịu nỗi buồn. Anh bắt đầu học hỏi, mò mẫm về nghề đan lát cổ truyền, mò mẫm chẻ tre, dao sắc ngọt chẻ vào tay, máu đỏ tươi của chàng trai mới lớn nhuộm đỏ chiếc bồ đầu tiên do anh làm ra, trả giá cho bài học đầu đời của người mới học nghề. Năm tháng thoi đưa, nhất nghệ tinh, nhất thân vinh, những bồ anh Thành làm ra có nhiều người mua, đặt hàng. Vào các phiên chợ làng, chợ huyện, anh thương mẹ già yếu không gồng gánh được, đường xa, người con gánh hàng, mẹ già nắm tay dẫn đường đến là cám cảnh. Và trong lần tan chợ huyện, hai mẹ con anh Thành vui mừng bán hết hàng chục chiếc bồ, trên đường trở về gặp bà già gánh khoai quá nặng đang nhích từng bước một nặng nề, khó nhọc. Anh Thành không nề hà mệt mỏi đã gánh hộ bà già đưa đến tận nhà. Người con gái tuổi đôi mươi của bà mua khoai đã cảm động trước tấm lòng của chàng thanh niên mù mắt nhưng tấm lòng sáng trưng, hiếu thảo với người già. Cô gái ấy sau này đã trở thành người vợ của anh Thành, người mẹ của 4 đứa con ngoan hiền hiếu thảo như cha mẹ ngày xưa.
      Đó là chuyện của anh Thành hơn 30 năm về trước, còn bây giờ cuộc sống của anh ra sao? Từ ngày lấy vợ rồi anh viết văn cho đến bây giờ à? Tôi hỏi.
      Anh Thành cười, nhưng câu chuyện của anh lại như tràn đầy nước mắt. Anh nói, đối với tôi, đến với văn chương không dễ dàng chút nào. Tôi không may mắn được học hành, không được tiếp cận với người thầy là niềm khao khát của tôi. Tất cả những gì biết được đều từ cuộc đời do tôi trải nghiệm. Ngày ấy lấy vợ xong, hai vợ chồng được ông bà cho mảnh đất ra riêng, sống trong ngôi nhà bé tý như chiếc lều. Tôi vẫn đan bồ theo đặt hàng, vợ đi mò cua bắt ốc. Những đứa con lần lượt ra đời, người mẹ kiệt sức vì sinh đẻ, vì đói khát đã đổ bệnh. Cùng đường rồi, nghề đan lát không đủ sống, không đủ tiền thuốc men cho vợ, anh Thành quyết định bỏ quê, dắt đứa con đầu đi tha phương cầu thực. Hai cha con lần mò khắp bến xe, nhà tàu, chợ búa…dọc khắp Miền trung. Người con bảy tuổi làm gậy cho người cha mù vịn vai để đọc thơ của Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, đọc truyện thuộc lòng từng đoạn tiểu thuyết của Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng...Nhiều chợ búa đã quen với sự có mặt của cha con anh Thành gọi anh là “vô tuyến truyền…miệng” của chợ. Suốt mười năm trời, cha con người mù sống trong cảnh cơm đường, cháo chợ, ngủ lang thang, có người thương, có người hắt hủi xua đuổi…Mười năm trời như thế, thu gom được những đồng tiền đầy nước mắt để gửi về quê cho vợ con,  nhưng mười năm ấy những kiến thức hiểu biết của anh ở nhiều lĩnh vực cũng đầy dần lên như phù sa của cuộc đời đang dồn đổ về một dòng sông là anh đang chờ đợi.
-Thế là anh bắt đầu viết văn từ ngày ấy? Trong nhiều tác phẩm của anh nói về số phận của con người bất hạnh, vươn lên bằng nghị lực và tình thương…?- Tôi hỏi.
      Anh Thành lại cười, giọng cười thoải mái lắm, nhưng sao sau chiếc kính đen là đôi mắt đầy nước? Có phải mười năm trời làm kẻ tha phương cầu thực đã rèn luyện cho anh điều khiển được nước mắt chảy vào trong?
-Không phải tự nhiên mà tôi viết văn. Tôi nhớ mãi một ngày mưa, hai cha con buồn bã  trú mưa nhờ ở ngôi quán bán nước ở tỉnh Quảng Bình, cô chủ quán còn rất trẻ, biết tôi có hiểu biết về văn chương đã cho con tôi mượn tập truyện ngắn Tên em là Xiêm Huệ của nhà văn Bá Dũng. Con tôi đã đọc tôi nghe một số truyện, nói lên số phận của những con người bất hạnh, đầy bệnh tật hiểm nghèo, vậy mà họ vẫn cố vươn lên để được học hành, được sống. Tôi nghe và ngẫm ra những truyện như vậy ở quang ta rất nhiều, truyện viết đơn giản nhưng cảm động, tại sao ta lại không viết được? Tại sao lại bắt con bỏ học đi lang thang kiếm sống thế này? Thôi, về thôi con ơi, con sẽ đi học, cha sẽ viết văn về những gì cha con mình đã trải nghiệm suốt mười năm qua.
      Tiếng nói anh Thành như nghẹn lại, tay anh quờ quạng trên bàn tìm chén nước, nhưng anh lại không uống khi tôi đưa tận tay.
-Ý định của tôi thì như vậy, nhưng về quê để thể hiện được ý tưởng của mình phải bằng phương thức nào đây? Người mù làm sao cầm bút viết được như người bình thường. Tôi xin gia nhập vào hội người mù, tham gia học lớp chữ nổi Braille. Nếu bây giờ ai hỏi tôi việc gì mệt nhất, khó khăn nhất thì tôi nói ngay, đó là học chữ  nổi Braille, mọi thao tác học chữ đều diễn ra trong tư thế mò mẫm, mò mẫm từng ký hiệu  cho từng con chữ khác nhau để đâm kim từng nét. Khó khăn vô cùng, mệt mỏi vô cùng, đến ngày đã mò đọc được sách, viết thành chữ nổi diễn tả được ý nghĩ của mình thì coi như mình đã được sống lại lần thứ hai.
-  Biết chữ nổi Braille rồi, tác phẩm đầu tiên của anh là thể loại gì?
- Việc đầu tiên của tôi là đọc, phải đọc nhiều tác phẩm văn học và báo chí để xem các nhà văn viết như thế nào? Có nhiều chuyện ở đời tôi được biết, nhưng thể hiện quan điểm, tư tưởng của mình ra sao thì phải học các nhà văn trên sách vở xem họ viết ra sao. Đến lúc hiểu được cách viết văn, viết báo thì tôi bắt đầu viết. Viết các bài báo, truyện in ở tạp chí, truyện đọc trên đài…Phần lớn những người biên tập ở báo, đài dần quen với hình ảnh một người phụ nữ gầy gò vất vả chở người đàn ông mù mắt trên chiếc xe đạp cũ kỹ mò mẫm đưa bài vở đến phòng biên tập. Rồi cũng người đàn bà lam lũ ấy nhiều người bắt gặp chị chiều chiều chở hàng đồng nát trên chiếc xe đạp cũ, trời nắng cũng như mưa về nơi tập kết thu mua.
      Anh Thành lặng người đi khi nói về người bạn đời thủy chung suốt mấy chục năm qua. Anh nói gia đình anh có thu nhập cũng từ ngày ấy, từ năm 1994 anh bắt đầu cầm bút. Vợ anh đã khỏe hơn, đi thu mua hàng đồng nát, bốn đứa con đều chăm ngoan đến trường, đôi lúc thư giãn anh đan bồ, còn lại thời gian anh viết văn, viết báo, làm thơ, nhuận bút để riêng ra không chi tiêu vào khoản sinh hoạt hằng ngày, dành giụm làm nhà cho mai sau. Để thuận tiện cho việc sinh sống phù hợp với gia đình, anh đã bán mảnh đất ông bà cho ở Miền biển, di cư lên Miền tây Xứ nghệ, và tiến hành làm nhà bằng số tiền nhuận bút, tiền thưởng, tích góp suốt 15 năm qua với số tiền bán đất ông bà cho. Nhiều tờ báo, tạp chí, và Nhà xuất bản biết hoàn cảnh gia đình anh nên cũng có phần ưu ái. Cho đến bây giờ anh đã có hàng trăm bài báo, 6 tác phẩm đã xuất bản: Tiếng lòng( Thơ) Nhà xuất bản Nghệ An, Hương Đại( Tiểu luận) Nhà xuất bản Nghệ An, Thủ lĩnh cóc tía( Truyện thiếu nhi) Nhà xuất bản Nghệ An, Phục Thiện( Tập truyện ngắn) Nhà xuất bản Nghệ An, Khúc ru lòng( Thơ) Nhà xuất bản Nghệ An, Nẻo khuất( Tiểu thuyết) Nhà xuất bản Hội nhà văn. Những giải thưởng anh Thành đã đạt được: Giải c cuộc thi Sức khỏe và môi trường của Sở khoa học và công nghệ Nghệ An năm 1995, Giải b cuộc thi truyện ngắn Báo Nghệ An năm 1996, Giải khuyến khích bình thơ, Đài tiếng nói Việt Nam năm 1997-1998, Giải b Tạp chí Đời mới- Hội người mù Việt Nam năm 2000, Giải ba luận văn – Tổ chức Ôn- ki- đô Châu Á Thái Bình Dương. Tặng thưởng văn học Hồ Xuân Hương- Hội Văn học Nghệ Thuật Nghệ An năm 2005, Tặng thưởng Đài tiếng nói Việt Nam năm 2005, Giải thưởng báo Tuổi trẻ năm 2006.
Tôi mừng cho anh Thành, và cũng hiểu được nghị lực của con người thật là vô biên khi mình đã quyết tâm, như lời Bác Hồ đã nói: “ Không có việc gì khó. Chỉ sợ lòng không bền…” Bốn đứa con của anh Thành có người đã có gia đình riêng, đứa con trai thứ hai tốt nghiệp đại học và cũng đã có việc làm ở Thị trấn Thái Hòa, hai đúa sau đang học Đại học, và Cao đẳng. Thật mừng cho anh Nguyễn Trung Thành, mừng lắm.
Đ. Q. N
28/2/2011