Trần Xuân An
KHÓA BẢO NGUYỄN HỮU ĐỒNG (1860-1920)
theo ra Tân Sở cần vương
Ông cam chọn lại quê hương, đất này
kiệu vua triền đông, dốc tây
nỗi niềm kẻ ở đêm ngày ngóng trông
quan Tường, Côn Đảo, cứng lòng
đày Pa-pơ-ét, đày không ngày về (1)
quan Thuyết, sơn phòng Hương Khê
lại băng trăm núi ngàn khe sang Tàu!
vua Hàm Nghi, gửi rừng sâu
Quảng Bình hoang rậm, biết đâu mà tìm!
chí Cần vương đành lặng im
nón tơi cày cuốc với sim mua buồn
luyện gươm cho bút khỏi suông
nhưng trường thi Huế cũng tuồng Đầm Tây!
làm dân, thuế cướp trắng tay
cùng dân vùng dậy bao vây tỉnh đường
ba năm tù sáng mười phương
vua Duy Tân cũng dầm sương thăm thầm
súng gươm cất giấu bao hầm
chờ ngày quật khởi, lại nhầm thời cơ!
chín năm tù, tóc trắng phơ
lại về dạy học, lặng chờ một mai
tuổi già ngắn, vận suy dài
huyệt sâu chôn lấp tâm tài ngàn năm
Cam Thành khuya một đêm rằm
tấc lòng còn đỏ hương trầm tỏa thiêng
và sân trường bóng cây nghiêng
nâng bao ngực áo khung viền tên Ông (2).
TXA.
00:30 – 02:23, 22-11 HB10
(1) Papeete thuộc quần đảo Tahiti, giữa Thái Bình Dương, gần Trung Nam châu Mỹ, nơi Nguyễn Văn Tường bị lưu đày biệt xứ và vô thời hạn, sau khi đã bị đày ra Côn Đảo. Ông mất vào ngày 30-7-1886 tại đó. Di thể được Tôn Thất Đính đưa về quê nhà.
(2) Trường PTCS. Khóa Bảo, tại Cam Lộ.
THĂM NHÀ LƯU NIỆM
CỐ TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẨN (1907-1986)
chiều đưa về với Bích La
bóng tre chỉ lối tìm qua bên này
Hậu Kiên, thời mở cõi đây (1)
bốn trăm năm, vút đỉnh mây sáng bừng
đề đốc uất buồn kiếm cung
xót xa, thợ mộc trần lưng ruộng vườn
sinh Người, khởi phận rất thường
gã thư kí nguỵ bên đường sắt Tây (2)
ngậm hờn nước mất, đắng cay
lao vào cách mạng. Tù đày, xiềng gông
ngấm đau khổ nhục, bền lòng
thắng Tây. Mỹ xé núi sông. Sao đành!
tắt chiến tranh bằng chiến tranh
xua đói nghèo, tóc trắng nhanh, vẫn nghèo
Tàu kia mặt nạ rơi vèo! (3)
suối sông bờ cõi: trong veo – đục mờ!
ba năm chạm trán hư vô (4)
Người nghe đất biển Liên Xô rạn dần
con đường cứu nước trọn phần
dở dang, rẽ lối cứu dân, vắng Người!
trưa Nhà Lưu niệm nắng tươi
chiều về hoa lá vẫn ngời hoàng hôn
dấu chân thơ dại mãi còn
và còn muôn thuở nước non giọng Người.
TXA.
19: – 21:40, 21-11 HB10
(1) Ông được sinh ra tại nguyên quán: Bích La Đông, Triệu Thành, Triệu Phong, Quảng Trị, nhưng thời tuổi nhỏ, sống tại làng Hậu Kiên, kề đó. Hiện nay, Nhà Lưu niệm được xây dựng tại Hậu Kiên.
(2) Ông có thời làm thư kí tại ga xe lửa Đà Nẵng, dưới thời Pháp xâm lược, thống trị, cũng như chủ tịch Tôn Đức Thắng đã có thời là lính thợ của thực dân Pháp (tôi viết câu thơ này trong tinh thần hòa giải, hòa hợp dân tộc). Tuy nhiên, ông sớm tham gia cách mạng (1930), trải qua hai lần tù tại Côn Đảo, 1931-1936 và 1940-1945…
(3) Xem: Bộ Ngoại giao Nước CHXHCN. Việt Nam, “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua”, Nxb. Sự Thật, 10-1979.
(4) Ông bắt đầu ngã bệnh vào năm 1982.