Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

TRẦN ÍCH TẮC PHẢI ĐƯỢC TÔN VINH LÀ ANH HÙNG DÂN TỘC (Kỳ 1)

Nhà văn Vũ Bình Lục
Thứ ba ngày 8 tháng 11 năm 2022 9:22 AM




TNc: Trang nhà nhận được bài nghiên cứu của nhà văn Vũ  Bình Lục về Trần Ích Tăc. Lịch sử triều đại nào cũng có những góc mờ mà hậu thế cần làm sáng tỏ. Ý kiến của nhà văn Vũ Bình Lục là một góc nhìn ấy. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Rất mong có những ý kiến trao đổi, tranh luận.


Trần Ích Tắc (1253-1329) là Hoàng tử con vua Thái Tông Trần Cảnh, do bà Vũ Phi (Vũ Thị

Vượng, quê Nam Định) sinh ra. Bà Vũ Thị Vượng là bà Phi thứ 5 của Thái Tông Trần Cảnh.

Văn bia làng Miễu, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định cho ta biết thông tin rất quan trọng, mà

sách ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ (ĐVSKTT) và các sách sử khác không thấy chép. Đó

chính là thông tin có từ tấm bia ở miếu cổ làng Miễu, chép rằng bà Vũ Thị Vượng là người đã

sinh ra Chiêu Đạo Vương Trần Quang Xưởng, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, Chiêu Văn

Vương Trần Nhật Duật. Chưa có tư liệu về hành trạng, về những cống hiến của Chiêu Đạo

Vương Trần Quang Xưởng, nhưng hai người con thứ Trần Ích Tắc, Trần Nhật Duật đều xứng

đáng được xếp vào bậc thiên tài.

Sách ĐVSKTT chép việc Trần Ích Tắc đem cả gia quyến chạy sang “hàng” nhà Nguyên,

vào ngày 15.3 năm 1285, tức khi giặc Nguyên Mông tấn công dữ dội Đại Việt lần thứ 2. Tuy

nhiên, theo Lê Quý Đôn, “một tài liệu lịch sử, cho dù có hoàn hảo đến mấy, cũng không thể hoàn

toàn tin theo được”. Theo nghiên cứu của chúng tôi, thì Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc đã theo

kế sách trá hàng, chạy sang hàng ngũ quân Nguyên để trở thành nhà tình báo chiến lược vĩ đại.

Điều này khá bất ngờ, là bởi lâu nay người đời cứ tin tưởng vào sách vở, mà không hề biết thực

tế như thế nào. Số phận của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc không khác gì những nhà tình báo

chiến lược ngày nay. Họ phải hy sinh rất nhiều, đặc biệt là về tiếng tăm, danh dự cá nhân.

Nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, Trần Ích Tắc có công lao rất lớn, cực lớn với

nhà Trần và với nước Đại Việt ta. Những hiểu biết sai lầm của “người trần mắt thịt”, rồi sẽ được

giải tỏa. Lịch sử sẽ lại viết những trang tươi đẹp về cuộc đời nhân vật lịch sử Chiêu Quốc Vương

Trần Ích Tắc. Điều này tôi tin là chắc chắn!

Tác phẩm của Trần Ích Tắc còn thấy CÙNG CỰC LẠC NGÂM TẬP (gồm 5 quyển). Lê

Quý Đôn chép vào sách TOÀN VIỆT THI LỤC 15 bài. Thế đủ biết rằng Lê Quý Đôn không hề

tin rằng Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc là “một tên phản quốc”, như những lời bình luận, cáo

buộc của “người trần mắt thịt” ngày nay!

Chúng tôi đã để khá nhiều thời gian để giải mã cuộc đời Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc

qua những biện giải, đối chiếu các tư liệu lịch sử, để chứng minh rằng Trần Ích Tắc không phải

là kẻ phản bội, tham sống sợ chết mà đầu hàng giặc Nguyên Mông. Đặc biệt là việc nghiên cứu,

giải mã hơn chục bài thơ còn lại của Trần Ích Tắc, được học giả Lê Quý Đôn đưa vào sách

TOÀN VIỆT THI LỤC, một tác phẩm vô giá của Quế Đường tiên sinh.

Một dân tộc mất thơ ca, là mất tất cả. Thơ phóng chiếu lịch sử chính xác nhất. Chúng tôi

sẽ lần lượt giới thiệu nội dung và nghệ thuật thơ Trần Ích Tắc, để chứng minh rằng, Trần Ích Tắc

đã “diễn” trọn vai nhà tình báo chiến lược vĩ đại như thế nào. Tấm lòng son chói sáng của ông

với triều Trần và đất nước Đại Việt như thế nào. Chính ông, bằng cách nào đó, đã góp phần

khiến vua mới (Nguyên Thánh Tông Thiết Mộc Nhi), cháu Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, đã

quyết định ban chiếu bãi binh. Nước Đại Việt đã may mắn thoát khỏi một cuộc chiến tranh đẫm

máu, chắc chắn là vô cùng khốc liệt lần thứ 4. Tâm trạng Trần Ích Tắc sung sướng như chưa bao

giờ sung sướng đến như vậy. Còn đây là bài thơ XUẤT QUỐC, xem như bản di chúc của Trần

Ích Tắc để lại cho đời sau. Chúng tôi xin phân tích đầy đủ cả bài, để bạn đọc suy ngẫm.

NT

Phiên âm:

XUẤT QUỐC

Đương niên trượng nghĩa xuất Nam bang,

Cảnh cảnh đan trung đối bi thương.

Bất vị Văn Công đào Tấn nạn,

Thử ky Vi Tử kế Ân vương (vong).

Cơ cừu vị mẫn tiên nhân chí,

Giản sách ưng lưu vạn cổ phương.

Hoàn vũ xa thư hội đồng nhật,

Cố gia tông tự Việt sơn trường.

Dịch nghĩa:

RỜI ĐẤT NƯỚC

Năm đó vì trọng nghĩa mà rời khỏi nước Nam,

Tấc lòng son canh cánh (của ta) chỉ trời xanh mới biết.

Chẳng phải Văn Công bỏ nhà Tấn lúc nguy nan,

(Mà) ngõ hầu (như) Vi Tử nối dõi nhà Ân đã mất.

Chí nối nghiệp cũ của cha ông vẫn không hề tiêu tan,

Nên để sử sách lưu lại tiếng thơm ngàn đời.

Đến ngày bờ cõi thống nhất cùng gặp gỡ,

Thì dòng dõi cha ông nối tiếp, lâu bền như núi non nước Việt vậy!

Dịch thơ

Trọng nghĩa, nên ta rời Đại Việt,

Trời xanh mới biết tấm lòng son.

Chẳng phải Văn Công rời Tấn quốc,

Mà như Vi Tử muốn Ân còn.

Chí nối nghiệp xưa luôn tạc dạ,

Tiếng thơm truyền mãi sử không mòn.

Một mai thống nhất giang sơn ấy,

Dòng dõi cha ông vững Việt non.

(VŨ BÌNH LỤC dịch)

Chỉ cần hiểu kỹ nội dung bài thơ của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, người đọc ngày nay mới

có thể hiểu rõ tâm sự của ông, muốn nhắn gửi đến muôn đời sau sự thật về cuộc đời phải hy sinh

vì lợi ích lâu dài cho đất nước. Nếu hiểu được nội dung bài thơ, chúng ta sẽ hiểu ngay rằng, Trần

Ích Tắc không phải là kẻ “phản quốc” như cái tiếng xấu ông phải mang vác nó, đeo đẳng nó theo

suốt cuộc đời ông. Đó chính là một sự hy sinh vĩ đại của một nhà tình báo chiến lược vĩ đại.

Mở đầu bài thơ, Chiêu Quốc Vương viết:

Đương niên trượng nghĩa xuất Nam bang,

Cảnh cảnh đan trung đối bi thương.

Năm ấy (đương niên), là vì trọng nghĩa (với triều Trần, đồng nghĩa với nước Đại Việt), cho nên,

ta mới phải rời Nam bang, tức nước Đại Việt của ta. Chứ đâu phải là ta bỏ mặc quê nhà trong lúc

nguy khốn mà chạy sang nương náu cửa người, để kiếm chút lợi nhỏ. Tấm lòng trung nghĩa của

ta, chỉ có trời xanh mới biết mà thôi!

Đó là một sự khẳng định. Đương nhiên, đó cũng là điều hết sức bí mật. Có lẽ, lúc bấy giờ

chỉ có Thượng Hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông, Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần

Quốc Tuấn, Thái sư Thượng tướng Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Hưng Ninh Vương

Trần Tung, biết chuyện này.

Lãnh đạo triều Trần đã bí mật tổ chức một cuộc đào tẩu, trá hàng một cách tinh vi, hoàn

hảo đến mức ngoạn mục như vậy. Trong khi những nhà chép sử thì cứ vô tư chép đại ý: “Trần

Ích Tắc cực kỳ thông minh. Ông tự cho mình là thông minh tài giỏi hơn tất cả các vị Hoàng tử

nhà Trần. Mới 14 tuổi, Ích Tắc đã được phong tước Chiêu Quốc Vương. Khi 15 tuổi đã muốn

được làm vua. Không thỏa chí thì sinh ra bất bình, bèn đem theo cả gia quyến, bỏ nước chạy

sang nhà Nguyên”. Đó là ngày 15-3-1285. Một cuộc tẩu thoát không hề có ai ngăn chặn. Thế là

sao?

Chuyện “năm ấy” là vậy. Nhưng tấm lòng “vì nghĩa” lớn của ta, chỉ có trời xanh mới biết

mà thôi!

Tác giả viết tiếp:

Bất thị Văn Công đào Tấn nạn,

Thử ky Vi Tử kế Ân vương (vong).

Thế là sao? Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc nói rằng, ta không phải là kẻ như Văn Công bỏ nhà

Tấn trong lúc nguy nan đâu. Mà ta như ngài Vi Tử kia, muốn nối dõi nhà Ân đã mất.

Rõ là hai nhân vật lịch sử Trung Quốc đời xưa, tình cảnh đối lập nhau. Tấn Văn Công

(697TCN-628TCN), chính là công tử Trùng Nhĩ. Hồi nước Tấn loạn, các vị công tử tranh đoạt

ngôi báu. Công tử Trùng Nhĩ bèn đem theo một số tùy tùng bỏ nước Tấn chạy sang lánh nạn ở

nước ngoài. Được nước ngoài giúp đỡ, công tử Trùng Nhĩ đem quân về giành được ngôi báu. Đó

chính là vua Tấn Văn Công. Tấn Văn Công là thế đấy. Nhưng ta tuyệt nhiên không phải như Tấn

Văn Công, thấy nước nguy nan mà bỏ nước ra đi, để sung sướng lấy một mình!

Ngược lại, ta như ngài Vi Tử kia, muốn nhà Ân còn mãi, tức là ta muốn nhà Trần còn

mãi, cho nên phải bỏ nước ra đi, gánh vác nhiệm vụ mới vô cùng nặng nề và cũng vô cùng nguy

hiểm. Vậy Vi Tử là ai? Vi Tử, tức Cơ Tử, là anh của vua Trụ (có sách nói là chú vua Trụ nhà Ân

(Thương). Vua Trụ tàn ác lắm. Vi Tử khuyên can, nhưng Trụ chẳng nghe, còn sai bắt Vi Tử

giam vào ngục, chờ giết. Vi Tử phải giả điên, mới thoát chết. Kịp khi Chu Vũ Vương diệt Trụ,

Vi Tử không chết theo nhà Ân. Ông nhận tước phong của Chu Vũ Vương. Vũ Vương cho Cơ Tử

(Vi Tử) làm vua nước Triều Tiên. Chính Vi Tử là người đem chữ Hán và văn hóa Trung Hoa

truyền sang Triều Tiên, tương tự như Sĩ Nhiếp đem chữ Hán sang truyền bá ở Giao Châu, mà các

nhà Nho nước ta tôn vinh Sĩ Nhiếp là NAM GIAO HỌC TỔ vậy.

Nhắc điển này, Trần Ích Tắc muốn nói điều gì? Tất nhiên là ông muốn nói rằng, cái việc

ra đi của ông là khác hẳn Tấn Văn Công, chỉ muốn nhờ thế lực ngoại bang để quay về làm vua

nước Đại Việt (Nam bang) đâu! Ông muốn như Cơ Tử, xây dựng thế lực mới, mở rộng lãnh thổ

nhà Trần về phương Bắc. Vậy đấy. Trần Ích Tắc thông minh mưu lược như vậy, đương thời,

ngoài mấy vị lãnh đạo chủ chốt, thì ai biết? Các nhà chép sử nước ta, ai biết? Họ cứ thấy hiện

tượng như vậy thì chép như vậy, chứ đâu biết thực chất câu chuyện bí mật kia nó như thế nào?

Cũng không thể trách cứ được họ.

Thực tế thì sao? Với cương vị rất cao mà Hốt Tất Liệt trao cho ông (chức Hồ Quảng

Bình chương Chính sự- Tể tướng) Trần Ích Tắc đã cùng con trai của mình âm thầm xây dựng

được một lực lượng quân sự hùng mạnh, chủ yếu là người Bách Việt. thuộc Lưỡng Quảng ngày

nay. Nhà Nguyên suy yếu dần. Một số thế lực mới nổi dậy tranh giành đất đai, ai cũng muốn làm

chủ Trung Nguyên. Nhà Nguyên phải rút chạy lên phía bắc, thành lập triều đại Bắc Nguyên.

Vùng Trung Nguyên chỉ còn ba thế lực tranh giành, tiêu diệt lẫn nhau.

Thế lực của Trần Hữu Lượng mạnh mẽ nhất. Ông lấy quốc hiệu là Đại Hán, treo cờ Hán.

Lực lượng quân đội có tới sáu bảy chục vạn tinh binh, chiếm lĩnh phủ Thái Bình (Quảng Tây) và

cả vùng trung lưu sông Trường Giang. Sau đó là thế lực của Chu Nguyên Chương. Còn lại là

Trương Sĩ Thành. Tình thế chiến cuộc giống như thời Tam Quốc vậy. Có tài liệu Trung Quốc

chép rằng Trần Hữu Lượng không phải là con trai Trần Ích Tắc. Nhưng đó chỉ là tài liệu ngụy

tạo mà người Trung Quốc muốn làm méo mó sự thật lịch sử mà thôi. Cái mẹo “khôn khéo” này,

người Trung Quốc vốn là bậc thầy. Thế nên, các thế hệ người Việt bị lừa bịp, hoang mang, nghi

ngờ. Họ lừa bịp cả thế giới, chứ chả phải chỉ mấy anh người Việt hiền lành chất phác đâu!

Ví thử nếu muốn trở về Đại Việt chiếm lấy ngôi vua, Trần Hữu Lượng (con trai Trần Ích

Tắc –ĐVSKTT) với sáu bảy chục vạn tinh binh, thủy quân gồm nhiều hạm đội lớn, thì việc đoạt

lấy ngai vàng nhà Trần, bấy giờ là Vua Trần Dụ Tông hèn kém, chắc dễ như trở bàn tay. Nhưng

mà, “Ta chẳng phải như Tấn Văn Công” hèn hạ thế đâu!

Nhưng trời không giúp Trần Hữu Lượng. Chu Nguyên Chương, lực lượng chỉ bằng một

phần ba Trần Hữu Lượng, nhưng nhờ có quân sư Lưu Bá Ôn rất giỏi mưu lược, cuối cùng, Chu

Nguyên Chương đã chiến thắng. Lưu Bá Ôn tài năng chả kém gì Khổng Minh, đã dùng kế hỏa

công đánh bại hạm đội hùng hậu của Trần Hữu Lượng trong trận quyết chiến chiến lược trên hồ

Bà Dương. Bị một mũi tên lạc trúng vào đầu, Trần Hữu Lượng hy sinh tại trận. Quân sĩ mất vua,

mất tướng chỉ huy, tan rã sau hơn hai tháng chiến đấu quyết liệt trên hồ Bà Dương, còn gọi là hồ

Bành Lãi, thông ra sông Trường Giang.

Chu Nguyên Chương sau đó tiếp tục đánh bại Trương Sĩ Thành, thống nhất thiên hạ, lập

ra nhà Đại Minh. Ví thử, Trần Hữu Lượng chiến thắng trong trận quyết chiến chiến lược trên hồ

Bà Dương, thì làm gì còn có nhà Minh nữa? Đất đai nhà Trần sẽ rộng lớn thế nào? Chẳng phải là

không thua kém gì sự nghiệp của Triệu Vũ Đế, vua nước Nam Việt hay sao?

Chiêu Quốc Vương khẳng định:

Chí nối nghiệp cũ cha ông (của ta) vẫn không hề tiêu tan,

Nên để sử sách lưu lại tiếng thơm ngàn đời.

Và Chiêu Quốc Vương mơ ước cái ngày thắng lợi:

Đến ngày bờ cõi thống nhất, (chúng ta) cùng gặp gỡ,

Thì dòng dõi (cha ông) nối tiếp, lâu bền như núi non nước Việt vậy!

Một niềm tin tưởng sáng tươi!

Bài thơ XUẤT QUỐC của Chiêu Quốc Vương như một di cảo vô giá, để lại tâm sự và ước

nguyện của ông cho đời sau. Những văn bản đã được viết ra ở mọi thể loại, mọi thời đại sau, đều

chỉ là những điều trông thấy, những điều nghĩ của những người ngoài cuộc. Thực chất của vấn

đề là ở phía sau hiện tượng trông thấy cho một kịch bản trà trộn vào đối phương, leo cao chui sâu

để thực hiện một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Con cháu đời sau như chúng ta, cần phải tỉnh

táo, suy ngẫm cho thấu đáo, không phải chỉ để vén lên bức màn huyền bí của lịch sử, mà còn

chiêu tuyết cho một nhân vật lịch sử, một người con anh hùng của đất nước phải cam lòng gánh

chịu oan khuất mấy trăm năm.