Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

LÃNG ĐÃNG BẾ THÀNH LONG

Y Phương
Thứ hai ngày 12 tháng 7 năm 2010 8:44 PM
 vspace=12
Tính đến tháng chín này, nhà thơ trẻ Bế Thành Long năm nay lên bảy hai. Anh sinh năm 1938, tại Cao Bằng. Con số bảy mươi, hay tám, chín mươi chả nói lên điều gì cả. Nhà thơ vốn là một thực thể của thiên nhiên, của tạo hóa. Những người không câu nệ gì đến tuổi tác. Thời gian với họ nằm ngoài vòng sinh tử. Hồi còn sống, các nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận vẫn muốn mọi người gọi mình bằng anh đó sao.
Bế Thành Long là người có tâm hồn thực sự trong trẻo trẻ trung, cả nghĩa đen lẫn bóng. Tình yêu con người ở trong anh luôn chúm chím nở nang và cất cao tiếng hát. Bế Thành Long có một giọng thơ hồn nhiên, nhưng đầy vẻ mộng mỵ. Nhất là khi anh tự đọc thơ mình. Những câu thơ bay nhảy hồng hào tươi tắn. Dường như chúng được thoát ra từ tóc, từ da thịt, từ móng tay, từ hàm râu... Người nghe đều bị anh làm thôi miên bởi chất giọng trầm ấm và động tác nhịp nhàng của đôi tay phụ họa. Mười ngón tay như những chàng nghệ sỹ. Khi thì chúng búng lên, lúc thì trúc xuống. Mười ngón tay như mười ngọn lửa thi nhau sưởi nóng cho bài thơ. Nhất là đám đà bà con gái mê mết nhà thơ họ Bế. Chả hiểu các vị mê thơ hay người. Cả một lũ tóc dài mềm oặt, phải dựa vào vách nhà để nghe Bế Thành Long đọc thơ. Nghe thơ xong, không ai muốn về nhà nữa. Họ cứ ngồi lỳ ở đó. Lòng vả như lòng trăng. Ai cũng muốn chạm tay tý ty vào người nhà thơ họ Bế.
Cái tài thơ nổi trội ấy đã mang đến cho anh khá nhiều phiền lụy. Nhưng tuyệt đối anh không bao giờ nhắc đến. Không bao giờ kể lại. Nhưng ai cũng biết, đó là thời kỳ văn nghệ Cao Bằng đang chập chững thành lập hội. Những người được tỉnh cử ra vận động thành lập hội, họ lấy làm khó chịu. Khi trước mặt mình bỗng nhiên sừng sững một ngọn núi thơ đích thực. Thế là họ ra tay đánh đòn hội đồng qua bài thơ “ Cái nghĩa đen của chợ”. Khi đó nhiều người có tâm, có tầm và sành thơ, liền tìm để đọc. Song họ chả thấy có ý tứ gì bêu xấu xã hội. Bài thơ nói thực trạng khó khăn về đời sống con người sau ngày nước nhà thống nhất. Nhìn thẳng vào sự thật. Nói đúng lòng mình. Tôi nghĩ, chả có gì sai. Thế mà tác giả bài thơ “Cái nghĩa đen của chợ”phải trả giá một cách vô lý. Vô lý nhưng anh không bao giờ hé răng kêu oan. Chỉ đêm về, một mình anh chuyện trò cùng con sông Bằng. Con sông đang kỳ đầy trăng đẻ ra gió mát. Con Sông Bằng mải miết vô tư nghịch cỏ. Còn Bế Thành Long thì âm thầm vầy nước. Anh thì thầm: Sông nhỉ, khi nào nước lắng hết bùn, người sẽ nhìn thấy cát.
Đúng thế. Chính xác là thế. Từ đó đến nay, anh có một loạt tác phẩm thơ và văn xuôi chậm chạp ra đời. Tuy chậm chạp nhưng nở nang vuông vức. Bây giờ, hễ xướng tên Bế Thành Long, ở cơ quan hội Nhà văn hầu như ai cũng biết. Nhất là mấy anh em Văn nghệ quân đội. Bế Thành Long ư! Đấy là một con người tuyệt vời. Bế Thành Long ư! Một nhà thơ độc đáo.
Có lần anh khoe mình thường đạp xe lên dốc còn phải phanh. Dù không nói ra, chắc các bạn cũng biết dốc núi Cao Bằng quanh co, dài thăm thẳm như thế nào. Người đi bộ dắt xe leo dốc còn chẳng nổi. Huống hồ ngồi lên đó mà đạp. Ai cũng biết đây là câu nói bốc phét đáng yêu. Nhưng có một phần đúng sự thật. Đó là sức vóc của Bế Thành Long cực kỳ tốt. Mỗi sớm mai, anh vẫn có thói quen  nhảy tùm xuống sông Bằng sông Hiến làm một hơi bơi lặn. Kể cả những hôm mưa tuyết. Nhiệt độ ngoài trời xuống dưới độ âm.
Tôi nhớ có lần anh tự kể. Mình vốn là hậu duệ của dòng họ Đào Duy. Tên đầy đủ là Đào Duy Vân. Nhưng không hiểu vì sao lại mang họ Bế. Bế Thành Long. Dân tộc Tày.
Anh sinh ra trong một gia đình viên chức thời Pháp. Mọi sinh hoạt đều theo nền nếp gia phong gia giáo. Từ ngày còn nhỏ anh, đã được cha mẹ dạy dỗ tỷ mỷ, cẩn thận. Đó là một bà mẹ đẹp lão, lúc nào cũng bỏm bẻm nhai trầu. Bà là hiện thân sinh động của một kiểu người con nhà gia thế. Bà coi những bạn của con mình như người thân. Bà dành những miếng ngon nhất, lạ miệng nhất cho khách. Khi thấy chúng tôi gắp những miếng thịt thỏ sốt rôty theo kiểu người Thái, xuýt hà kêu cay, bà mủn mỉn cười lấy làm hài lòng.    
Có điều này mà bạn bè thấy rõ ở anh. Nhà thơ họ Bế chả bao giờ quan tâm tới chức vị cao thấp, nhà cửa giàu sang, thụ hưởng bổng lộc. Cái xứ sở của mình, hầu như ai cũng mê mẩn con đường quan lộ. Đi trên con đường ấy, họ chả mất gì. Chỉ mất nhân cách, mất đạo lý, mất liêm sỉ… mà được thì nhiều vô kể. Được nhà cửa. Được đất đai. Được kính thưa. Được kính gửi. Kính gửi từ cây cảnh, chim cảnh, mật gấu, cao hổ thứ thiệt đến cổ phần các công ty kim cương vàng bạc đá quý. Mà nào họ có giỏi giang, thông thái gì cho cam. Thậm chí có nhiều người rất đụt. Đụt như cái xà beng. Cái xà beng tôi nói các đồng chí nhớ lấy mang về thi hành cho tốt. 
Trở lại câu chuyện của nhà thơ. Đến nay, con người ấy vẫn “mờ mờ nhân ảnh” trong tôi. Chẳng bao giờ nghe thấy anh nhắc đến qua khứ. Quá khứ vinh hay nhục đều bị anh cho vào túi pác mạ treo lên sàn nhà. Tôi chỉ được biết tuổi học trò Bế Thành Long qua lời kể nhà báo Nguyễn Như Mai, kiến trúc sư Đoàn Đức Thành. Những người bạn thân thiết từ hồi cùng học trường cấp hai sơ tán ở Bản Đà, sau những năm chống Pháp. Đó một chàng thư sinh, lịch thiệp, đẹp trai, tóc xoăn, học hành rất giỏi, nói năng từ tốn. Đặc biệt là môn văn. Nhưng anh cứ lãng đãng theo mây ngàn gió núi …cầu bên núi xa chênh bóng nước/mây ngàn gieo tải nắng phương xa.
Hồn thả theo đàn bò…con bò không biết mình đường bệ/đeo bầu vú nặng/theo bầy chúc mũi nó đi nghiêng…
Theo cỏ: …cỏ non cứ bời bời không ngủ/bước trâu chờ bước nghé lang thang..
Theo tiếng xe trâu:..chắc sương đêm lạnh khô tàu chuối/lệch tiếng xe trâu chở gỗ ngàn..
Theo người em trai:..em trai tròn giấc trong rơm ấm/lòng gập ghềnh xa lắc gõ mênh mang..
Theo con ngỗng trời…quá khứ đêm thu về lớp lớp/tiếng ngỗng trời co kéo không gian…
Theo cơn mộng mị: Về trong mộng/mái chèo nước đục/bãi bờ khô xác gió hoa lau/ta thấy em/em chẳng nói gì/ta cũng chẳng nói gì/đất nhẹ nở đầy hoa cúc dại/hương thơm khắc khổ vậy ư/em có dịu dàng nữa đâu mà anh đợi/em về/thoáng nhẹ/áo trắng ngày xưa lạnh mỏng manh....,
Hoặc theo một cô gái, không có thực trong đời: Tranh ai vẽ giang sơn diễm lệ/ở thời xa vô tận/sông xanh hững hờ/trong tranh cô gái mang bình/rực rỡ thơ ngây/gió xốp nâng bềnh áo nhẹ/từ bờ sông em toan bước đi đâu.
Theo một làn nắng: Em giặt áo bên dòng sông nọ/mấy lần thơm lại nắng quê hương/trẻ mỏ nhà ai quấy khóc/có ai xa đất mẹ cuối đời…
Thưa nhà thơ họ Bế. Anh viết đến thế thì còn ai dám xa quê hương nữa. Tôi đã không nín được cơn buồn. Nỗi buồn của người tha hương. Nỗi buồn ấy nhìn cây cũng ra nước mắt. Nước mắt màu xanh.
Nhưng nỗi buồn về cái tôi bé nhỏ, rồi nhẹ nhàng tan ra, nhường chỗ cho cái ta rộng lớn, sang trọng, và quý phái. Ấy là khi anh vẽ chân dung thi hào vĩ đại Tagore: Râu tóc cũng phải lòng mây gió/du hành, suy tưởng, trắng phơ phơ/ tương tư những đỉnh đời hóa đá/trong hư vô, cũng lạ, trơ trơ.
Bế Thành Long là bạn thủy chung của muôn loài cỏ cây, của núi cao sông sâu và các bậc hiền nhân quân tử. Nhưng tịnh không thấy nỗi buồn tan nát với mối tình tay ba tay tư thường có trong đời. Nhất là ở tâm hồn lãng mạn bay bổng của các chàng thi sỹ. Ta thấy các bóng hồng lác đác, thưa thớt xuất hiện trong thơ anh. Mà họ cũng chẳng nói gì. Không có những âm thanh run rẩy va nhau lập cập. Người đọc có thể hiểu mọi cảm xúc đều được nhà thơ kiềm chế đến độ tối đa. Bóp bụng để yêu. Nín thở để yêu. Yêu như nén lò xo. Khi được dịp bung ra, tình yêu ấy sẽ nổi lên như cơn bão táp. Lúc ấy, họ chỉ có thể…tay nắm bắt vô cùng trăng sáng nhạt. Và lại trở về tâm trạng bãi bờ khô xác gió hoa lau.
Một loạt cụm từ: hững hờ, nhạt, lạnh, trơ trơ, khô xác, co kéo, xa chênh... Đối lập hoàn toàn với : đường bệ, sải cánh, kìn kìn, âm vang, thu về lớp lớp, chúc mũi đi nghiêng, gõ mênh mang…Rất phức tạp. Tạo ra cảm xúc he hé, mới lạ trong tiếp nhận thơ của Bế Thành Long.
Ai đã từng lên miền núi Cao Bằng, chắc không còn lạ gì với gió mùa đông bắc tràn tới. Gió thổi rạc cả đá núi, bạc cả nước sông, mốc meo cả da người. Thổi mệt mỏi cả đám lau lách. Thổi đến nỗi bãi bờ khô xác. Hai chữ khô xác ôm đủ, lãnh trọn một hiện thực thiên nhiên nơi đây nghiệt ngã đến chừng nào.
Ai đã từng tiếp xúc với nhà thơ Bế Thành Long, chắc khó lòng mà quên mọi cử chỉ, lời nói từ con người anh. Tất cả đều toát lên một vẻ đẹp thuần khiết của người miền núi. E thẹn và hay xấu hổ.
Tôi còn nhớ vào những năm giữa của thập niên 80 đầu 90. Khi ấy ấy anh mới ngoài năm mươi một chút. Mọi người  thấy Bế Thành Long bỗng dưng để râu. Bộ râu đen nhánh xùm xòa che kín ngực. Anh bảo tớ chỉ ba tháng không cạo là được như thế này đây. Tôi nghĩ bụng, xem ra bộ râu ria con người này còn có thể lấy thêm một bà vợ nữa. Y như rằng. Sau khi nhận sổ hưu, nhà thơ Bế Thành Long mủm mỉm thắt càvạt đi làm chú rể thêm một lần nữa.
Chuyện tình nhà thơ người Tày này còn dài lắm, và điều ấy nếu xảy ra cũng thật bất ngờ. Bất ngờ đến nỗi cả hàng tre rì rào trước cửa nhà, mỗi khi nhìn thấy Bế Thành Long lúng loắng từ đâu bước đến, tre liền ngả ra một tiếng chào: Ọt ẹt!
Trần Hùng kể. Có một hôm đi cùng anh Long vào quán hàng cơm phở. Hai người gọi hai bát phở vịt. Bà chủ quán cung kính. Dạ! Đây là bát của cụ. Không xương xẩu gì đâu cụ ạ. Hai người nháy mắt hích hích cười lấy làm thích thú. Rồi đột nhiên, bà chủ quán nghe thấy từ chỗ “cụ” Long ngồi kêu lên ba tiếng rột. Sau ba tiếng rột là hết nhẵn cả phần canh xương lẫn bánh phở, lẫn thịt vịt, lẫn hành mùi thái dối. Bà chủ quán tròn xoe hai mắt, há to vòm miệng. Thấy phê quá, bà đon đả. Dạ! Con mời cụ dùng thêm bát nữa nhé. Thôi! Cảm ơn. Tôi đủ rồi. Trước khi qua đây, tôi đã tranh thủ làm hai thanh lương khô Hải Hà. Bát phở này là ăn thêm.
Ối! Thật phúc đức…
Bà chủ quán thốt lên đầy vẻ thán phục. Năm đó hình như bà ta đã ngoài sáu mươi. Còn nhà thơ Bế Thành Long, chắc chắn kém bà chủ quán đến cả chục tuổi.
Ảnh: Bế Thành Long và con gái Bế Phương Mai