Khi ở Kinh Thành Lãn Ông có dịp gặp một người bạn ở quê nhà. Ông có hiệu là Lộc Nam Dật Tẩu. Người bạn này gửi cho Lãn Ông lá thư và vài bài thơ kể nỗi lòng nhớ quê khiến Lãn Ông thêm buồn rầu cảnh cô đơn phiêu bạt của mình. Dưới đây là bài thơ của Lộc Nam Dật Tẩu:
Âm Hán Việt
Ngô huynh thiếu dữ lộc vi quần
Nhất đảm phiên nhiên dịch thử thân
Ấp vũ dĩ thâm tân lục trúc
Nham khê do mạt cựu thời vân
Tòng lai lợi tỏa danh cương khách
Không tác lâm tàm giảm quý nhân
Tảo tảo hồi kiên dinh biệt nghiệp
Nhàn hoa dã thảo hữu dư xuân
Dịch thơ:
Huynh xưa bầu bạn hươu nai
Công hầu bỗng chốc, một mai kinh thành
Mưa quê cho trúc thêm xanh
Đá khe vẫn phủ mây lành ngày xưa
Lợi danh đã buộc người chưa
Sang hèn rồi cũng có chừa bút nghiên
Thôi mau về giữ nghiệp riêng
Hoa đồng cỏ nội vui miền nhàn xuân
*Đọc câu “Ngô huynh thiếu dữ lộc vi quần” có thể hiểu “ Thủa nhỏ huynh và Lộc hợp thành một nhóm”. Do đó hốt nhiên tôi ngẫu hứng thuận theo cảm nhân dịch bài thơ theo một cách khác:
Ngày xưa trong đám bạn bè
Lộc này cùng với huynh về một phe
Sáng chơi ở núi đá khe
Chiều về nằm khểnh bụi tre quanh làng
Công hầu một bước xênh xang
Lợi danh cương tỏa ai màng bút nghiên
Thôi mau về giữ nghiệp riêng
Hoa đồng cỏ nội vui miền nhàn Xuân
Nội dung lá thư của Lộc Nam Dật Tẩu như sau:” Đệ định đến mồng 2 tháng sau thì dọn về làng. Nhân lúc ban đêm gió Thu hiu hắt, lá chuối rì rào trong lòng đệ đột nhiên nghe tiếng mùa Thu, nhớ đến canh nhút, gỏi cá vược ở quê nhà. Lòng này biết nói cùng ai… “
Lời văn của lá thư làm tôi cảm xúc “phóng tác” thành lục bát. Nhân đây gửi nhà thơ Trần Nhương đọc giải trí.
Đêm Thu hiu hắt gió Thu
Rì rào lá chuối, sa mù vườn khuya
Lòng khách trọ, tiếng Thu quê
Nhớ sao là nhớ, thôi về nhà thôi
Về nhà nghe tiếng đêm rơi
Động âm lá chuối, vọng lời giếng khơi
Nhớ thong dong, nhớ thảnh thơi
Nhớ quanh co ngõ, dạo chơi quê nhà
Nhớ tre trúc, nhớ la cà
Nhớ khe, nhớ suối, nhớ…và bóng hoa
Nhớ cả Trăng lúc nhạt nhòa
Nhớ trong giấc ngủ , vỡ òa cơn đau
Nhớ canh nhút, nhớ mớ rau
Nhớ gỏi cá vược ngọt ngào chân răng
Nhớ quê đã mấy mùa Trăng.
Rồi Lãn Ông cũng có dịp về thăm quê Nội nơi ông sống thủa nhỏ. Cụ lên thuyền qua sông Nhị Hà về làng Liêu Xá quê Cụ.
Âm Hán Việt
Lạc phách giang hồ tam thập niên
Như kim phục thướng Nhị Hà thuyền
Thiên lưu hợp phái hoành trung thổ
Tam Đảo kình vân lập viễn thiên
Cảm tích hưng kim do vị dĩ
Hương hoài khách tứ khước du nhiên
Hạnh thừa chiếu mạng lai kinh quốc
Đắc dữ thân bằng tiếu nhất phiên.
Dịch thơ:
Ba chục năm lạc giang hồ
Hôm nay thuyền cưỡi sóng to Nhị Hà
Theo sông về về lại quê nhà
Ngàn giòng hợp một ngang qua đất này
Núi cao Tam Đảo rẽ mây
Nỗi xưa giờ bỗng dâng đầy lòng ta
Nhớ quê những tháng năm xa
Làm thân lữ thứ để mà…nhớ quê
May mà chiếu chỉ gọi về
Lại được cười với bạn bè một phen.
…nay về thăm nhà thì vật đổi sao dời, bà con không đông đủ nhưng tôi không biết họ là ai…
Âm Hán Việt
Cố hương nhất quy tỉnh
Khế khoát ảm nhiên sinh
Lịch lịch hi du địa
Du du cảm động tình
Tùng thư tân sang tự
Hoa thảo cựu thời dinh
Tương kiến nhi đồng bối
Hàm hồ nhận nhụ danh.
Dịch thơ:
Một ngày về lại cố hương
Ngổn ngang lòng những sầu vương một ngày
Sân chơi thuở trước còn đây
Dạo quanh chợt thấy dâng đầy tình xưa
Chùa mới dựng bóng tùng thưa
Dinh cơ nền cũ giờ thừa cỏ hoang
Gặp bầy trẻ nhỏ trong làng
Vui quàng chúng bảo, rõ ràng biết tôi
Âm Hán Việt
Thiếu thời du ngoạn xứ
Mỗi vọng mỗi ta tư
Kỷ độ phi hoàng diệp
Trùng lai vọng bạch ba
Hoành kiều y cựu khúc
Đoản thụ chí kim tà
Tuế nguyệt thôi nhân khứ
Thân bằng kỷ tại gia
Dịch thơ:
Tuổi trẻ suốt xứ rong chơi
Mỗi khi nhớ lại lòng thời thở than
Ngày qua mỗi độ lá vàng
Sóng chồng lớp song hàng hàng sóng xô
Cầu ngang vẫn bắc ngang hồ
Cây xưa tàn thấp bây giờ đã nghiêng
Bao người, tuổi đã ngủ yên
Họ hàng, bạn hữu còn riêng mấy người
Âm Hán Việt
Tiêu điều loạn hậu cảnh
Kim nhật thủy trùng quang
Cổ tỉnh trừng lưu nguyệt
Phi liên thụy thổ hương
Lâu cao ưởng chung cổ
Tùng tĩnh vận sinh hoàng
Phi điểu ưng tri quyện
Khuynh sào tại dị hương
Dịch thơ:
Làng xưa luân lạc tiêu điều
Ngày nay xây dựng mỹ miều đẹp chưa
Giếng xưa còn giữ trăng xưa
Hương sen ngủ giữa đất vừa trổ hoa
Ngọn tùng xanh lặng bóng tà
Lầu cao chuông trống âm hòa ngân nga
Cánh chim mỏi, lạc bầy xa
Về đây, dựng tổ xây nhà, thành quê
TRỞ VỀ QUÊ CŨ
Cuối cùng thì Lãn Ông cũng thoát khỏi cảnh bị giam lỏng ở Kinh Thành…khác gì chim sổ lồng, cá thoát lưới. Lòng về như mũi tên, cứ muốn đi nhanh…Mỗi khi thấy sắc xanh đậm tôi lại tưởng đâu là núi quê mình…
Âm Hán Việt
Bái biệt long lâu cửu bệ hàn
Mang huê cầm kiếm xuất đô quan
Mã am cựu lộ hồi trình dị
Chu khứ trung lưu phản trạo nan
Vân nhược đa tình lai khước thử
Sơn như hữu ý vị khai nhan
Tây biên vạn tụ giai thương thúy
Duy hữu song phong tự ngã sơn
Dịch thơ:
Chia tay gác tía lầu rồng
Gươm, đàn quẩy gánh, giũ lòng rời đô
Ngựa quen đường nhớ lối về
Khó khăn thuyền ngược sơn khê mấy vòng
Mây đa tình, bóng che giòng
Núi thương hiện dáng cho lòng gần quê
Phía Tây xanh vạn ngọn kề
Xa quê nên nhớ hẹn thề muốn nhanh
Nép bóng hai ngọn núi xanh
Làng tôi, chỗ khúc uốn quanh sông dài
Hành trình Lãn Ông lên Kinh Thành, rồi khó khăn mới quay về được Hương Sơn quê cũ, như một hành trình chứng nghiệm lại những gì Lãn Ông đã trải qua. Để thoát khỏi vòng cương tỏa của danh vọng, để thấy cũng chỉ là hư danh. Từ đây Lãn Ông vĩnh viễn trở thành Hương Sơn Ẩn Giả, làm thuốc cứu đời. Để lại danh thơm trong đời.
Thưa nhà thơ Trần Nhương, khi đọc tới phần kết luận của tác phẩm Thượng kinh kí sự, tôi đã” phóng tác” thành Lục Bát . Gửi Anh đoc giải trí:
Giàu sang rồi như mây bay
Ca lâu rồi cũng một ngày bỏ hoang
Thoát vòng danh lợi đa mang
Bằng không hối cũng muôn màng nhuc thân
Nhớ thề xưa chẳng sa chân
May còn núi cũ rừng gần, suối xa
Lại được về ngủ dưới hoa
Nằm khoèo bên suối, giường là đá rêu
Tai nghe vượn hú, chim kêu
Gảy đàn uống rượu thấy yêu quê nhà
Chợt nhớ những tháng năm xa
Giật mình chạnh nghĩ, may mà chẳng mê
Ngày đi thung dung rời quê
Trở về ngất ngưởng đề huề trồng rau
Ghi việc trước, răn đời sau
Mặc phù vân vẫn bay mau trên đầu