GIỔ TỔ HÙNG VƯƠNG
Mỗi năm đến, giỗ vua Hùng,
Toàn Dân nước Việt quy về tri ân,
Dòng máu Lạc Long Quân thuở trước,
Sánh Âu-Cơ kiệu rước nên duyên,
Giống rồng, liên kết nòi tiên,
Sanh vừa trăm chẵn, trai hiền tinh anh.
Nước Văn-Lang lập khai cùng thuở,
Do trưởng nam trăn trở, kiên tâm,
Hùng-Vương hiệu chính minh quân,
Phát phuy Việt tộc cản ngăn bắc thù.
Gương cổ tích khẩu bia để lại,
Thời Hùng-Vương lý, đạo uyên thâm,
Hiếu, trung, tín, nghĩa đi đầu,
Can trường, gia, quốc dốc lòng hy sinh,
Như Phù Đổng Thiên Vương bất khuất,
Phá giặc Ân tre quất vó tung.
Sơn-Tinh đại chiến Thủy-Tinh,
Núi dâng ngăn nước uy linh vạn đời.
Lòng nhân hậu không rời huynh đệ,
Nghĩa phu thê dấu lệ Trầu-Cau.
Tiên-Dung Đồng-Tử sánh vai,
Sắt son bình đẳng, không phân sang hèn.
Tài canh tác thân, quen củng cố,
Tích An-Tiêm dưa hấu tình thâm.
Ân trời, huệ đất không quên,
Vuông, tròn thổ sản bánh chưng, bánh dầy.
Ôi! còn những núi mây hoài bão,
Thuở bình sanh chân rảo núi rừng,
Tổ tiên khắc phục không ngừng,
Hiểm nguy đoàn kết, khốn cùng sớt chia.
Rồi tộc Việt đầm đìa nước mắt,
Trải nghìn năm chinh bắc, dẹp nam,
Dưới quyền thống trị xâm lăng,
Máu rơi, xương chất, thăng trầm bể dâu.
Nay tổ quốc ngưng hồi lửa đạn,
Đàn cháu con tản mạn đông tây,
Chỉ vì huynh đệ đắng cay,
Vết thương lòng đã phôi phai mấy lần!
Ngày giỗ tổ xa gần khấp khởi,
Phút ghi ơn trông đợi hằng năm,
Tổ tiên có biết hay chăng?
Con dân nước Việt còn ngăn cách lòng!
Đuốc thiêng sông núi tỏa hồng,
Muôn đời soi sáng tinh thần Việt Nam.
Hai Bà Trưng
Bao năm tổ quốc thăng trầm
Thân làm con Việt nguyện lòng sắt son.
Dù cho sông cạn đá mòn,
Quyết tâm gìn giữ con Rồng cháu Tiên
Nghìn xưa vạn kiếp oai nghiêm
Nghìn sau hậu thế tri ân tôn thờ
Khí thiêng lồng lộng đến giờ
Anh linh nữ kiệt Hai Bà Trưng Vương
Năm băm-tư (34), sau Công Nguyên
Hán quân gian ác, nắm quyền ngược ngang
Thái Thú Tô Định tham tàn
Dân ta Giao Chỉ muôn vàn hận căm
Thi Sách quê đất Vĩnh Yên,
Là con Lạc Tướng Châu Diên phất cờ,
Mưu việc chống cự bấy giờ,
Tô Định bắt giết răn ngừa dân ta.
Rửa hận nước, báo thù nhà
Vợ ông Trưng Trắc phất cờ khởi binh
Cùng em Trưng Nhị xuất chinh
Người người nổi dậy, dân binh một lòng
Cỡi voi ra trận song song,
Quân Hán vỡ mật, chạy không ngoái đầu
Tô Định trốn thoát về Tàu,
Sáu-mươi-lăm (65) ải địa đầu hạ xong
Phá tan đô hộ bất công
Giao Chỉ sạch bóng Hán quân tham tàn
Năm bốn-mươi (40), sau Công Nguyên
Hai Bà lên nắm chính quyền xưng vương (40- 43)
Đóng Đô tại đất Mê Linh
Trưng Vương hiệu chính quên mình vì dân
Bốn mùa thấp thoáng qua nhanh
Danh tướng Đông Hán xua quân báo thù
Mã Viện tay nắm soái phù
Xua quân nam tiến mong trừ Trưng Vương
Máu loang xương chất sa trường
Hai đằng nghênh chiến loạn đường giáo thương
Nhờ lòng quân sĩ quật cường
Hai Bà thắng trận bao lần vinh quang
Về sau thế yếu, ít quân
Hai Bà lui bước rời xa đô thành
Hai năm cầm cự đi nhanh
Hai Bà thất thế, thu về dưỡng quân
Một lần giặc bủa vây gần
Hai Bà đã chọn trầm mình Hát Giang
Ngày nay ở tại hai làng
Hát Môn thứ nhất thuộc vùng Sơn Tây
Thứ nhì tên là Đồng Nhân,
Ráp ranh Hà Nội còn nguyên đền thờ
Ba năm khởi nghiệp dựng cờ
Gương vàng thiên cổ muôn đời lưu danh
Tâm Thơ