Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

NGUYỄN VIỆT CHIẾN…CƯỜI

Thanh Thảo
Thứ sáu ngày 5 tháng 3 năm 2010 3:57 PM
LỜI BÌNH CỦA NHÀ THƠ THANH THẢO VỀ BÀI THƠ “THỜI ĐẤT NƯỚC GIAN LAO” :

 TNc: Đúng vào dịp Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 8 thì không khí thi ca có mấy biểu hiện như sau: Trên báo Văn nghệ tp Hồ Chí Minh có bài của tác giả Nguyễn Văn Thịnh viết bài Một giải thưởng không thể chấp nhận chụp cả tác giả thơ và BTC giải VNQĐ. Tôi ngờ rằng đây là một nhà ní nuận có môn bài nhưng ẩn danh. Một chuyện nữa là một số cơ quan có thẩm quyền tp Cần Thơ yêu cầu BGK cuộc thi thơ Đồng bằng sông Cửu Long chọn bài thơ khác trao giải Nhất thay cho bài Trăng nghẹn của Hoài Tường Phong với lý sự: Trăng thì phải sáng, thậm chí rất trong sáng chớ không thể nào nghẹn được. Và chiều ngày 3-03-2010, Ban thường vụ Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật thành phố Cần Thơ đã họp và chính thức quyết định loại bỏ giải Nhất của bài thơ Trăng Nghẹn của Hoài Tường Phong
. Thật kinh hoàng cứ như cách mạng văn hóa bên đồng chí TQ....


Đọc bài Trăng nghẹn theo link :http://trannhuong.com/news_detail/4033/TRĂNG-NGHẸN

     Tôi ít thấy một nhà thơ Việt nào lại có cái cười hồn nhiên, trong trẻo và…ngây thơ như cái cười của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến. Anh bây giờ đã là “người nổi tiếng”, “người của công chúng” rồi, nhưng không vì thế mà Chiến thay đổi bất cứ cái gì, nhất là thay đổi…nụ cười. Vẫn cái cười tuếch toác đó, nó làm “lộ” hết tâm hồn Nguyễn Việt Chiến, một nhà thơ đa cảm, đa mang và cũng đa…sự. Ngay khi Chiến thoát khỏi “nạn tai”, tôi nhìn bức ảnh anh chụp với bạn bè đón anh ở Hà Nội, đã thấy Chiến…cười rồi. Vẫn cái cười không thể lẫn với bất cứ ai đó. Nụ cười đã giúp anh bền lòng trong gian nan, và khiêm nhường trong hạnh phúc. Đó là một nụ cười hơi đặc biệt, vì nó nở trên một gương mặt nhiều khắc khổ. Giống như đóa hoa dại nở trên mảnh ruộng làng dọc ngang những đường cày. Gương mặt của Chiến khắc khổ thật, một gương mặt cố dấu nỗi buồn, một gương mặt lẽ ra sẽ còn…khổ hơn, nếu, vâng, nếu anh không có nụ cười “thương hiệu Nguyễn Việt Chiến” đó.
    Tôi trước đây chỉ đọc thơ của Chiến, và anh em quen nhau qua…điện thoại, qua email, chứ cho tới khi Chiến lâm nạn, tôi chưa được một lần gặp anh. Nhưng nhiều khi trong cuộc đời này, chẳng cần gặp cũng cứ yêu quí nhau như thường. Trước, tôi quí mến Chiến vì những bài thơ của anh, những bài báo của anh, sau này tôi lại yêu quí Chiến bội phần vì nhân cách của anh, niềm tin của anh. Tôi cảm được cái “phần cứng” trong nhà thơ cựu quân nhân này, và đó là “phần cứng” của một người thẳng ngay, yêu nước, cái phần không thể thay đổi dù trải qua phong ba. Bây giờ thì chúng tôi đã gặp nhau nhiều mỗi khi tôi ra Hà Nội, anh em lại có dịp ngồi bù khú với nhau bên cốc bia. Chiến lại…cười, và tôi thích, tôi đồng cảm với nụ cười trẻ thơ này, có lẽ vì tôi cũng hồn nhiên gần như Chiến, và cũng hay cười toác loác không biết dấu diếm hay che chắn, như Chiến.
   Chơi với những người ngay thật thì quả là hạnh phúc. Ta không cần có bất cứ sự phòng ngừa hay rào đón nào. Ta cứ ào ào mà chơi mà thổ lộ tâm tình, rồi ai lại về việc của người ấy. Lâu lâu gặp nhau là thấy vui, xa nhau cũng nhớ nhớ. Ở tuổi tôi, thường người ta thích hồi ký, riêng tôi lại cứ thích những chuyện mới xảy ra, đang xảy ra, và cố gắng cảm thấy những gì…sẽ xảy ra. Cũng chỉ để cho…vui, vậy thôi! Có lẽ vì thế mà tôi thích tạng người như Nguyễn Việt Chiến. Thích người, rồi thích cả thơ của người ấy. Bài thơ “ Đất nước thời gian lao” của Nguyễn Việt Chiến vừa được giải B cuộc thi thơ Tạp chí văn nghệ quân đội. Nhiều người nói với tôi, bài thơ ấy giải A mới xứng! Tôi…cười, một nụ cười gần giống nụ cười của tác giả bài thơ. Và tôi biết, nếu nghe câu ấy, Nguyễn Việt Chiến cũng sẽ…cười, như vậy. Một nụ cười hồn nhiên, nhưng tách bạch cả “phần cứng” và “phần mềm”. “Phần cứng” là những gì không thể thay đổi trong anh, còn “phần mềm” là cách ứng xử luôn nhẹ nhàng và đằm thắm của Nguyễn Việt Chiến:
                  “ Mẹ ở lại với sông Hồng tần tảo
                    Áo phù sa lam lũ tháng ngày
                   Câu quan họ cất trong bồ thóc cũ
                   Sông Cầu trôi như một tiếng thở dài…”
Tôi dừng lại rất lâu ở câu thơ cuối: Sông Cầu trôi như một tiếng thở dài…Không phải dễ để có câu thơ đó.
               Mẹ đã sống dưới mưa phùn ảm đạm
               những ngày dài nghèo đói quắt quay
               Mẹ thiếu sữa sinh đứa con thiếu tháng
               Tổ quốc xanh xaoTổ quốc hao gầy
 
              Mẹ có mặt trong dòng người nhẫn nại
              lặng lẽ xếp hàng từ mờ sớm tới đêm hôm
              Mẹ lần hồi thời cơm tem gạo phiếu
              nuôi lớn những người con
              rồi gửi tới chiến trường
 
Có người sẽ nói với tôi: những câu thơ này cũng bình thường thôi mà! Thì đúng thế! Đây là những câu thơ hết sức bình thường, hết sức giản dị, nó giản dị như “ Mẹ lần hồi thời cơm tem gạo phiếu/nuôi lớn những đứa con/rồi gửi tới chiến trường/” Cái bình thường ấy, cái có vẻ như “tự nhiên” ấy khiến ta chết nghẹn ! Đây là bài thơ mà phải đọc nó bằng tấm lòng yêu nước thương dân thì mới vào được chiều sâu ngỡ bình dị của nó. Có thơ nông cạn bẩm sinh, có thơ lừa ta bằng sự sâu sắc “dỏm”-thực chất là nông cạn và sáo rỗng. Nhưng cũng có thơ đánh lừa ta bằng sự đơn giản bên ngoài. Ta phải bình tĩnh đi qua sự giản đơn đó, và thấy…
                 “ một thế hệ hồn nhiên không biết chết
                    chưa từng yêu khi gục ngã cuối trời”
 
Bởi một điều đơn giản: nếu biết chết, chết nhiều như vậy, chết như không như vậy thì chưa chắc đã dám đi chiến trường! Thế hệ chúng tôi hồi đó hồn nhiên lắm, mà cũng chả nghĩ ngợi gì nhiều! Tôi chợt nhớ, mới đây, tại một hội nghị văn học, một nhà thơ nổi tiếng hơn cả thơ mình, đã từng viết một câu đánh giá thế này về một  truyện vừa của một nhà văn thế hệ chống Mỹ: truyện ấy cũng thường thôi! Nhà văn kia đã nói lại, cũng một cách đơn giản: ông thử viết được như thế đi! Có thể cái truyện vừa ấy chưa phải là một kiệt tác, nhưng đó là một truyện rất hay, và cái quan trọng hơn, “ông” có biết nó được viết ra trong hoàn cảnh nào không ? Chả ai muốn có cái “hoàn cảnh” khốn khổ như thế, chết tiệt như thế để viết tác phẩm cả! Nhưng nó đã có, và phải chấp nhận nó để sống còn và viết. Nguyễn Việt Chiến hiểu được điều này bằng chính thơ của anh, chứ không phải bằng những lời đãi bôi, nghe qua rồi bỏ. Được như thế là chúng tôi mừng lắm rồi!
                                                Thanh Thảo
 
      Dưới đây là một đoạn hồi ức đầy cảm động về một người lính đã hy sinh trong chiến tranh qua lời kể của blog  Gocomay trên trang blog quechoa của nhà văn Nguyễn Quang Lập
   Nhân vụ “một số ý kiến và thông tin cho rằng bài thơ “Thời đất nước gian lao” là “có nhiều vấn đề”, nên nhà thơ Nguyễn Việt Chiến xin tự nguyện không nhận giải thưởng thơ của tạp chí Văn nghệ Quân đội” (trích lời nhà văn Nguyễn Quang Lập).
  Mặc dù nhà thơ Nguyễn Việt Chiến từ chối nhận giải chỉ với một lý do giản dị: “sau khi giải thưởng được công bố, tôi thấy có nhiều ý kiến khác nhau. Tôi đã từng được giải cao của VNQĐ về thơ nên việc có thêm một giải thưởng nữa cũng không quan trọng lắm”… Về sự kiện này nhà thơ Trần Mạnh Hảo cho rằng:“Người ta có thể viết rất hay về sự dối trá; nhưng sự dối trá không thể làm nên bài thơ hay. “Thời đất nước gian lao” của Nguyễn Việt Chiến” là một bài thơ hay, như một âm bản, một phiên bản thật nhất của tâm hồn nhà thơ đang ngồi trên chiếc chiếu manh hòa bình, tưởng nhớ đến những vạt cỏ phủ lên đồng đội xưa ngã xuống, những vạt cỏ của kinh cầu hồn (Requiem) thi ca, của nỗi buồn thánh treo veo nước mắt. Chúng tôi đã rất cảm động khi lần đầu đọc bài thơ này của Nguyễn Việt Chiến, đến nỗi khóe mắt rơi giọt sương khuya”…
    Hình tượng bầy hươu trong bài thơ cuả anh Chiến đã đưa tôi trở lại với một hồi ức nhỏ, cách đây đã 34 năm, cũng vào dịp giáp tết như thế này, gia đình tôi có tổ chức (tự phát) một cuộc “hồi hương” khá ngoạn mục cho người anh trai cả cuả tôi, bộ đội hy sinh ở Trường Sơn năm 1972, vào cái mùa hè đỏ lưả bởi bom bi – B52 – giải thảm cuả máy bay Mỹ. Anh tôi hy sinh ở độ tuổi 31, nhưng vẫn còn “con trai” (chưa vợ). Thể theo giấc mơ cuả mẹ tôi: “… con đang nằm ở đây bên đồng đội, vui, nhưng không được yên… xin mẹ hãy đưa con về quê hương… bên các cụ… để con được.. trà nước phục vụ tổ tiên…”.
Hai người anh (một anh trai, một anh rể), lúc đó đều còn trong quân ngũ đã cùng cắt phép và thực hiện cú đột nhập nghiã trang Trường Sơn, “đào trộm” vào ban đêm (vì lúc đó nhà nước chưa cho phép rời mộ liệt sỹ về quê) để đưa anh về. Thời đó đường sắt thống nhất chưa thông, tàu xe đi lại cực kỳ khó khăn, xe lửa chỉ tới Vinh… mà nghiã trang Trường Sơn thì ở bờ Nam Sông Bến Hải, trên thượng nguồn. Nhưng như có phép lạ, theo tính toán phải từ 7 tới 10 ngày mới hoàn tất công việc. Thế mà chỉ 3 ngày 4 đêm cả đi lẫn về anh tôi đã về tới gốc sấu trước cửa căn hộ mà thời thơ ấu, học trường Bưởi (thập niên 1950), anh tôi đã từng sống (số nhà 22 Tràng Thi Hà Nội). Chuyện có nhiều tình tiết ly kỳ, xin hẹn dịp khác, nhưng chuyện đàn kiến càng (kẻ thù) và chuyện con hươu (bạn) cuả anh tôi thì không thể đừng được!
* * *
Buổi chiều hai người anh cuả tôi đóng giả làm người hành hương tới thăm nghiã trang. Lúc đó Nghiã trang Trường Sơn mới hình thành nên còn sơ sài lắm. Sau khi xác định được chính xác vị trí, các anh đã đi thắp hương, khấn, xin phép không thiếu một đồng đội nào hiện diện ở nghiã trang để xin cho anh tôi được hồi hương. Sau đó hai người ra rừng nghỉ ngơi, ăn cơm nắm chờ nửa đêm thì đột nhập tiến hành công việc. Lật được cái nấm bê tông xây bên trên, không có gì là khó, móng nông choèn, lối đi chưa có lát gạch đá gì. Nhưng khi vừa hết thép xẻng đầu tiên thì, ôi thôi, cơ man nào là kiến lửa bu vào “tấn công”, khiến hai anh em phải thay nhau mỗi người đào dăm ba phút lại phải nhảy ra vuốt mặt, tay chân, dũ quần áo gạt kiến… thảo nào giấc mơ nói về sự “vui” mà không “yên” cuả anh tôi là như vậy. Mãi tới hơn 3 giờ sáng thì mới gói xong mẩu xương cuối cùng cho vào ba lô…. mang ra cánh rừng để lần về bờ Bến Hải. Lạ thay, khi vừa vượt qua hàng rào (mắt cáo B-40) thì có một con hươu rất to sừng sững đứng chắn giữa đường mòn ngay trước mặt. Như phản xạ cuả những người lính (thời chiến) anh rể tôi rút khẩu K54 (anh là sỹ quan quân đội) định bắn, nhưng anh trai tôi đã kịp thời ngăn lại “đừng… biết đâu nó ra chào… tạm biệt anh chúng mình đấy!”. Vừa dứt lời thì chú hươu ngửa cổ be lên 3 tiếng và lững thững nhường đường cho hai người đi…. vừa ra tới bờ sông đã gặp ngay chiếc cam nhông cuả bộ đội đi lấy quân trang cho đi nhờ ra Đồng Hới. Vừa xuống xe lại gặp ngay một xe tải khác từ Đồng Hới đi Vinh. Vào ga Vinh thì cũng là lúc chuyến tàu đi Hà Nội đang từ từ chuyển bánh… Chuyến “mã hồi” vì thế chỉ có một ngày một đêm là tới ga Hàng Cỏ rồi.
  Nghe hai anh tôi kể lại chuyện con hươu và chuyến đi may mắn đã lâu, tưởng đâu đã rơi vào quên lãng, nay thấy anh Chiến lại tả “bầy hươu bị săn đuổi” trong bài thơ mà lại còn “gác sừng lên người bạn vô danh” đã làm tôi thực sự xúc động. Xin phép nhà thơ Nguyễn Việt Chiến được post bài thơ đó lên đây để mọi người cùng thưởng lãm. Với niềm tin một bài thơ đặc sắc như thế sẽ sống mãi trong lòng độc giả, dù nó có thể bị qui chụp, vùi dập hay vô tình, vô cảm cuả bất cứ ai, hay bất kể thế lực hắc ám nào.
Gocomay
 
 
 
 
Nguyễn Việt Chiến
  
   Thời đất nước gian lao   
 
 
Chúng đã ngủ cả rồi
những con hươu bị bóng đêm săn đuổi
chúng đang gác cặp sừng lên vầng trăng cuối tháng
rồi nằm mơ về một cánh rừng
không có thuốc đạn và súng săn
 
Họ đã ngủ cả rồi
những người lính bị chiến tranh săn đuổi
họ nằm mơ gặp lại bầy hươu
gác sừng lên người bạn vô danh
trên cánh rừng đã chết
 
Chỉ còn lại vầng trăng và giấc ngủ
chỉ còn lại dấu vết cuối cùng của bầy hươu bị săn đuổi
chỉ còn lại câu thơ thầm lặng
về những người đã ra đi
 
Chỉ còn lại những gì không còn lại
bởi người  đau đớn nhất sau chiến tranh
không ai khác ngoài mẹ của chúng ta
những đứa con không trở về
hoà bình dưới mưa phùn
được đắp bằng cỏ non và nước mắt
 
  *
*   *
 
Đêm đêm
những người con ngỡ đã đi thật xa
đang lặng lẽ trở về
họ lẫn vào gió vào sương đêm
không cần an ủi
họ chẳng ồn ào như lời ca sôi sục ngày ra đi
 
Họ còn nguyên tuổi trẻ
những người lính chưa tiêu phí một xu mơ ước
chưa tiêu hoài một đồng thanh xuân
 
 
Họ trở về tìm lại
trang sách học trò đêm đêm còn thao thức
trên  cánh đồng tiếng Việt ngàn năm
 
Mẹ lại thấy chúng con về
như cánh cò tuổi thơ lưu lạc
đã bao ngày phải xa rời thôn ổ yêu thương
chúng con trở về tìm lại
giọt nước mắt xót xa và đắng cay của mẹ
 
Một bên là núi sông ngăn cách
còn bên kia là bóng đêm chiến tranh
vẫn biết đạn bom không có mắt
vẫn biết hận thù không thể phân biệt nổi
đâu là hoa sen và đâu là bùn tối
nhưng các anh vẫn phải ra đi
 
Các anh phải ra đi
lời ru chùa Tây Phương
những La Hán mặt buồn
người thợ mộc xứ Đoài
lấy thân xác hom hem của mình làm mẫu vẽ
ba mươi sáu dẻo xường sườn
réo rắt tấu lên bản đàn tam thập lục
người gẩy đàn thì đau đớn
mà bản nhạc viết cho đàn lại reo vui
 
  *
*   *
 
Mẹ đã sống dưới mưa phùn ảm đạm
những ngày dài nghèo đói quắt quay
Mẹ thiếu sữa sinh đứa con thiếu tháng
Tổ quốc xanh xaoTổ quốc hao gầy
 
Mẹ có mặt trong dòng người nhẫn nại
lặng lẽ xếp hàng từ mờ sớm tới đêm hôm
Mẹ lần hồi thời cơm tem gạo phiếu
nuôi lớn những người con
rồi gửi tới chiến trường
 
Mẹ đã khóc lúc rời ga Hàng Cỏ
những đoàn tầu hun hút tuổi hai mươi
một thế hệ hồn nhiên không biết chết
chưa từng yêu khi gục ngã cuối trời
 
Mẹ ở lại với sông Hồng tần tảo
áo phù sa lam lũ tháng ngày
câu quan họ cất trong bồ thóc cũ
sông Cầu trôi như một tiếng thở dài…
 
  *
*   *
 
 
Tàu xuyên đêm
tiếng gió xé bánh xe lăn quần quật
đêm nay họ trở lại một thời gian lao
đường vào Nam hun hút những chuyến tầu
máu rất đỏ tuổi hai mươi nằm lại
câu hát bảo:
tuổi hai mươi những người đi trẻ mãi
câu thơ bảo:
đất nước hình cánh võng mẹ ru ta
 
Và ở hai đầu đêm võng mắc dọc rừng già
trăng cũng sốt rét rừng như ta sốt
trăng mất máu như bạn ta thủa trước
dọc cánh rừng na-pan
 
Sông Thạch Hãn
nước mùa này còn ấm
và các anh trong suốt
những người hy sinh thời gian lao
 
Mây Quảng Trị
mùa này vẫn một mầu huệ trắng
trên Cổ Thành
như  ngày các anh ngã xuống
những người hy sinh thời gian lao
 
Và mưa gió Trường Sơn
mùa này vẫn tắm gội
những người con nằm lại
thời đất nước gian lao
 
 
Những cánh rừngcuối thu ngủ dưới mưa phùn
đất nước tôi những người nằm trong đất
chất phác như bùn hồn nhiên như cỏ
buồn đau không còn thở than
 
Những ngọn sóng đất đai lưu giữ mọi thăng trầm
người chép sử ngàn năm là bùn đất
kiên trì và nhẫn nại
máu của người là mực viết thời gian.