Cha
tôi sinh năm Thìn (1904), và người mất cũng năm Thìn (1988). Những hai con Rồng
cơ đấy! Ông cưỡi Rồng đến với thế giới hoang dã này và giã từ thế kỷ máu lửa
đầy giông bão này cũng trên mình Rồng. Nhưng rất tiếc con Rồng của cha tôi chỉ
là Rồng Đất, Rồng giáng chứ không phải Rồng thăng. Bạn thử nhìn kỹ coi. Nó
không có vảy, nghĩa là Rồng lươn như thời nhà Lý. Nó chỉ giỏi bò và trườn hệt
lươn. Náu mình trong đầm phá, bao phen Rồng cất mình bay là là trên mặt nước
rồi bổ nhào đâm đầu cắm xuống bùn, suýt chết.
Năm
2000, đón chào thiên niên kỷ mới anh em nhà chúng tôi dù tứ tán khắp nước nhưng
đều nhận được tập hồ sơ tù của cha tôi Thái Doãn Tiên cùng chú Út Thái Doãn Nghiên do Viện Bảo tàng Xô viết
Nghệ Tĩnh gửi. Thật xúc động khi nhìn
gương mặt trẻ của cha chú đầu trọc lốc, gầy gò, mặt rầu rầu trong tư thế chụp
chính diện hay chụp nghiêng… Do mối quan hệ tốt đẹp thế nào đó, Chính phủ Pháp
có thiện ý giao cho phía Việt Nam
300 hồ sơ tù nhân trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 của Sở Mật thám
Đông Dương tàng trữ ở Paris.
Danh sách có đăng báo Nghệ An. Cha tôi lãnh bản án 5 năm tù cấm cố với tội danh
“Trong hỏi cung khai là đảng viên đảng cộng sản Đông Dương, chi bộ Vầng Hồng”.
Thật dám làm dám chịu đúng tinh thần thượng võ của một con người trung trực.
Khai làm cộng sản thì tù mọt gông chứ chẳng chơi. Xót con, bà nội Hoàng Thị
Nguyên phải bán không biết bao nhiêu mậu ruộng chạy đôn chạy đáo mới lo lót cứu
hai anh em ra khỏi tù, thoát chết, sau 2 năm bị nhốt xà lim Vinh.
Sau
12 năm ngâm cứu, nhờ sự kiên trì
của cháu Thái Thị Hải Châu với
tất cả lòng yêu kính ông nội, ngày 18-2-2012, từ Thành phố Vinh, Ban Thường vụ
tỉnh ủy Nghệ An ra quyết định 1545- QĐ/TU
công nhận Đồng chí Thái Doãn Tiên (1904-1988) Nhà giáo, Bác sĩ Đông y
quê xã Yên Lăng, huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An (nay là xã Thịnh Sơn huyện Đô
Lương) là Đảng viên Đảng cộng sản Đông
Dương vào Đảng năm 1931, nguyên là cán bộ hoạt động cơ sở có thời gian hoạt
động cách mạng từ 1928 đến 1931. Gia đình đồng chí Thái Doãn Tiên được hưởng
chế độ đãi ngộ đối với bậc lão thành cách mạng trước 1-1-1945 kể từ ngày ký
quyết định. Kèm theo là 50 triệu đồng. Thay mặt Ban thường vụ, Phó bí thư
thường trực. Đã ký Trần Hồng Châu.
Bao
nhiêu biến thiên dâu bể cuộc đời. Cha ơi, cha không còn sống để thấy sự kiện
lớn ngày hôm nay. Cha được chiêu tuyết rồi ! Cha sống lại rồi ! Bao nhiêu tháng
năm dài dằng dặc cha ngậm oan để sống. Cha bị nghi ngờ, xét nét, hành tội bởi
những người lãnh đạo chính quyền. Họ vẫn giao việc như Chủ tịch làng Kim Liên
khi cướp xong chính quyền, Trưởng ban Bình dân học vụ xã Yên Hòa trong chiến
dịch diệt giặc dốt 1946-48…Bác sĩ đông y Thường trực trạm xá xã 27 năm… nhưng
họ không tin. Họ hành xử theo cương lĩnh Xô Viết Nghệ Tĩnh do Trần Phú thảo
“Trí, phú địa hào đào tận gốc xốc tận rễ..”, xem ông là phần tử trí thức xấu -
kẻ thù của giai cấp cần loại bỏ. Họ xử tệ với cha tôi bằng những hành vi thô
bạo nhắc lại thêm đau lòng. Các con của ông cấm không được học bất cứ một
trường đại học nào, không được vào đảng trong tiến trình chúng tôi cúc cung đi
theo cách mạng. Trong lý lịch đi học Đại học sau khi rời quân ngũ của tôi, hồ
sơ mật bí thư TD Ngữ bịa tạc ghi “ông bố tổ chức tập toàn phú hữu chống phá
cách mạng”. Việc vào đảng của mấy anh chị tôi mới bi đát hơn : anh Sửu 33 năm 5
làm đối tượng Đảng, Chị Thanh 35 năm đối tượng Đảng. Anh Hảo 25 năm đối tượng
Đảng. Chỉ có anh Sửu kiên trì nên thành công. Trời, thời đó mà có một đạo bùa
chú như thế này hôm nay thì chúng tôi
đâu đến nỗi long đong lên bờ xuống ruộng. Không phải riêng cha tôi mà cả 7 anh
chị em chúng tôi nữa đều là nạn nhân của các đồng chí của cha tôi! Cũng may, Xô
Viết Nghệ Tĩnh thất bại bị dìm trong bể máu, nếu nó thắng lợi thì còn đau biết
gấp mấy lần cho anh trí thức?
Cho
đến tận ngày mất, chưa bao giờ thấy cha tôi khoe với các con tao là “đảng viên
Cộng sản” như một vinh danh thời thượng. Hình như có uẩn khúc gì đấy, ông ém
nhẹm giấu tiệt điều này tài thế. Chỉ có chuyện này thì ông kể say sưa : ông bị
nhốt cùng một xan với cụ Hồ Tùng Mậu và Tôn Quang Phiệt. Mấy ông trí thức hay
chụm đầu vào nhau bàn bạc chuyện quốc sự. Bọn cai ngục thấy bất an bất lợi,
tách mỗi người ra một khám. Không được trò chuyện với nhau cũng buồn, cha tôi
nẩy ra sáng kiến khi đi tiêu, nhặt những tờ báo người ta chùi khu có tít chữ
lớn giữ lại. Khi muốn thông tin cho các cụ, chỉ cần kết nối các con chữ lại với
nhau trên một tấm bảng. Vì phát minh này mà các cụ bị bọn cai ngục đàn áp cho
ăn một trận mưa dùi cui. Cha tôi lõa máu đầu chạm đến não di hại đến cả cuộc
đời, về sau cứ hễ động trời cắn nước thì
đầu lại đau như búa bổ.
Giáo sư Hương trường, Bác sĩ Đông y
THÁI DOÃN TIÊN
(1904-1988)
Ra
tù cha tôi lại trở về với nghề gõ đầu trẻ, tuy có gián đoạn một thời gian tù
đày. Mặc dầu có tì vết nhưng bọn Pháp thực dân
vẫn tin dùng người. Ông tốt
nghiệp trường sư phạm Bảo hộ, ra trường năm 1926 với tấm bằng ghi rất
trang trọng “Giáo sư Hương trường”. Ông Giáo sư hương trường dạy học trò trường
làng khai tâm phóng học đến cấp một với đồng lương đủ cho cả nhà sống sung túc:
9 đồng/ 1 tháng lương khởi điểm (2đ 8/ 1 tạ gao), vải, đường, xà phòng, thịt
hộp… phát riêng. Ông ăn vận rất sang, mặc Tây, mặc Ta đủ cả, thích nhất là bộ
quần ba ba tơ tằm màu mỡ gà do mẹ tôi nuôi tằm dệt lụa làm lên. Chân ông dận
đôi dép cao su Sài Gòn trắng mỏng dính, đầu đội mũ phớt, tay cần cái ba tong và
đi trong tư thế ung dung đạo cốt. Những lúc cao hứng ông làm thơ hoặc đọc cho
chúng tôi nghe một đoạn văn của Bôđơle hay Veclen thật diệu nghệ, phát âm chuẩn
như Tây. Ngày nghỉ, ông thường lên Thị
trấn Đô Lương đi bát phố coi cảnh phố
phường buôn bán nhộn nhịp sầm uất, kết
thúc bằng một chầu phở xào giòn mà ông khoái khẩu, rồi lại thong dong bộ hành 4
kilômết về nhà. Bọn trẻ chúng tôi căn giờ đón ngoài cổng. Gặp ông là sà xuống
vây quanh, thọc tay vào áo bađơxuy lôi ra những thỏi bánh mì thơm thơm mùi lúa mạch, mùi lên men chua
chua. Mẹ tôi lườm lườm nhìn ông và lũ trẻ mắng yêu “Cao lâu thì cha xơi, đem về
cho con những cục cơm nguội nướng”. Theo định kỳ, ông được tăng lương lên 11
đồng, 15 đồng…Ông giáo Thiệu (tên chị Cả) mà
dân làng và học trò
kính cẩn gọi như thế đã sắm được xe đạp Steclinh ngang với ông nhà
giàu Phó Ky.
*
Vào
đầu năm 1953, xóm trên làng dưới bỗng truyền đi tin đồn: Một ông công an gộc,
nghe đâu là trưởng đồn công an huyện Con Cuông sẽ biệt phái về xã Yên Hoà để
đối mặt với một tên phản động gộc. Hắn về thật. Hắn là Học Mai,Thái Doãn Mai,
có học chút ít nên mới gọi là Học. Hắn về chiều thì hai giờ sáng đã đến viếng
ông chú họ. Lễ nghĩa quá ta ! Tên hung
thần này kéo theo một đám lâu la dăm bảy
đứa tay gươm, tay mác bặm trợn như lũ cướp. Học Mai vận một bộ quân phục ka ki
vàng choé thưả theo lối Amêricơn bê rê trễ trên đầu, súng pachoọc chễm chệ bên
hông, nòng dài quá đầu gối, giày săng đá với những hàng đinh dày lộp cộp nghiến
trên nền gạch. đến ghê. Hắn đập cửa rầm rầm, dựng cả nhà dậy. Mọi người nhà tôi
ngái ngủ tưởng trời sắp sập. Học Mai cất cái giọng khê lòm rin rít qua hai hàm
răng sít sịt đều đặn trắng nhởn như bắp ngô :
- Lệnh bắt người và khám nhà.
- Lệnh của ai !Vì tội gì ? - Mẹ tôi hỏi
- Lệnh của Công an. Tội làm phản động, làm
giặc.
- Chứng cớ đâu ?
- Chúng tao sẽ đập cho lòi cái chứng cứ ra !
- Công an không có quyền, chỉ có lệnh của Tòa
án mới có hiệu lực – anh Hợi vặc lại.
- Đừng lôi thôi lắm lời. Chính quyền - toà án -
công an chỉ là một. Lệnh ai chẳng được. Chúng bay ! khám nhà.
Sau
hai tiếng lục soát chẳng tìm được gì khả nghi, chúng tiu nghỉu bắt cha tôi và
anh Hợi đi để lại một bãi chiến trường ngổn ngang tủ, bàn ghế tanh bành, quần áo bươi chười, sách vở tài liệu rủ tằm
rủ rối. Mẹ tôi ngao ngán, thở dài. Các anh em tôi chết lặng đứng như trời
trồng.Cảnh cướp bóc ở nhà Vương Ông dưới chính thể mới đang tái diễn.
Tối
hôm đó, Học Mai hối thúc dân làng đến Hội quán làng mở cuộc đấu tố cha tôi. Hai
cha con bị bắt quỳ dưới đất, ngứa không dám gãi. Hắn tuyên bố :
-
Trước mắt bà con dân làng là một tên phản động gộc. Hãy tấn công không khoan
nhượng vào tên tội phạm, kẻ thù không đội trời chung của nhân dân. Theo tình
báo của ta, thằng thầy giáo Nguyễn Ngạn làm việc ở ban tu thư Bộ Giáo dục đứng
ra thành lập một chính phủ lâm thời phản động gọi là Cộng hòa Việt Nam. Danh sách
nội các chính phủ của y gồm 15 bộ trưởng. Cách đây nửa tháng tên Nguyễn Ngạn
giữ chức Thủ tướng ghé qua nhà Thái Doãn
Tiên giao cho tên này chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Giáo Thiệu ! Ông có nhận tội
không ?
Cha
tôi từ tốn:
- Có lẽ các ông nhầm với ai đó. Nguyễn Ngạn là
bà con đằng ngoại mẹ tôi ở Yên Thành. Cũng như Phan Đăng Diêu, ông ấy là
bạn học đồng khóa sư phạm ghé thăm xã
giao chứ tuyệt nhiên chẳng có chuyện tổ chức chính trị nào cả như các ông vu oan giá họa.
- Vu oan giá họa à ! - Học Mai rít lên - Nguyễn Ngạn hiện đã bị
bắt, đang nhốt trong lao. Để xem cái thành thực của ông đến mức nào, ông giáo
ạ. Sớm muộn rồi cũng cháy nhà ra mặt chuột. Ông ăn bơ thừa sữa cặn của đế quốc
nên ông lú lẫn chuyên đi ca ngợi văn minh thực dân.
Lời
ném qua câu quặng lại, gậy gộc đánh đập phũ phàng lên thân thể mảnh mai nhà nho
của cha tôi. Ông bị treo ngược lên xà nhà hội quán. Thương cha, anh Hợi dùng
vai đỡ cho cha khỏi mỏi, lấy thân làm chiến lũy thịt che chở cho cha mà không
kín được, ông vẫn phải ăn những ngọn đòn hiểm từ mấy tay côn đồ đánh rất có
nghề.
Khi
đưa ông về đến chỗ tạm giam thì thân thể cha tôi rũ ra như ngọn rau muống héo,
máu mê bết mặt, bết tóc, toàn thân bầm dập. Các anh chị tôi phải dùng
thuốc đông y xoa bóp khắp toàn thân để
tan máu bầm.
Đêm
thứ hai lại đến. Vẫn là trò nhục hình khốn nạn đó lặp đi lặp lại. Tiếng đánh
đập thình thịch, tiếng kêu thét dậy trời. Đau quá, cha tôi xin khai. Chúng cởi
trói hạ cha tôi xuống đất, thì vừa lúc ông ngất đi. Chúng lấy nước ruộng hắt
vào mặt. Một chốc ông tỉnh lại, ngơ ngác không nhớ ra chuyện gì đang xẩy ra với
mình.
Đêm
thứ ba. Ngón đòn hiểm cuối cùng chúng dở dói ra là dùng lưỡi cày nung đỏ, bắt
nghi phạm ngồi lên may ra nó khai. Chiều
ấy, mẹ tôi khẩn thiết nhờ lão bộc Bon cấp tốc ra Yên Thành mời cho bằng được
ông Nguyễn Ngạn lên cứu chủ.
Khi
quần ông Thiệu cháy khét rẹt, da thịt ông ở mông sắp chạm chiếc lưỡi cày đỏ lòm
thì một tiếng thét vang lên :
- Dừng tay! Ta là Nguyễn Ngạn đây. Các ông giết
người vô chứng cớ. Ông đòi nhân chứng thì ta đây là nhân chứng sống. Còn gắp
lửa bỏ tay người nữa không? Chúng tôi sẽ kiện các ông ra tòa về tội vu khống.
Học
Mai sai người xét giấy tờ, cứng họng, đuối lý, nhũn như con chi chi, len lét
như rắn mồng năm.
- Chúng tôi lầm. Xin lỗi. Xin lỗi !
Ngay
lập tức, Học Mai buộc phải trả lại tự do cho ông giáo Thiệu. Một vài tiếng chê
trách xì xầm trong đám đông “Cháu giết chú. Đồ dã thú”. Học Mai đốp cháp ngay
“Chú cháu thì rồi vẫn là chú cháu, nhưng nếu là kẻ thù giai cấp của nhân dân
thì tôi đây không tha”. Các anh chị tôi khiêng cái xác thoi thóp của cha về
nhà. Đau và mừng. Năm ấy cha tôi mới 49 tuổi qua ba ngày tra tấn nhục hình sọm
đi như ông già bảy mươi. Mẹ tôi phải khôi phục những vết bầm dập toàn thân động
đến nội thương lục phủ ngũ tạng mất ba tháng trời bằng một lứa tằm chín ngào với mật ong với khoảng dăm chục chén thuốc bắc..
*
Giữa
năm 1955. Cải cách Ruộng đất tràn qua quê
tôi như một cơn lốc xoáy làm làng xóm xơ
xác tiêu điều, con người sống trong tâm trạng nơm nớp hãi hùng, sợ Đội
như sợ cọp, không ai dám túm tụm chuyện trò sợ bị liên lụy. Chính quyền xã bị
vô hiệu hóa. Đội Cải cách xâu rễ bắt chuỗi với bần cố nông, đoàn kết với trung
nông lớp dưới, cô lập bọn phú nông, tiêu diệtgia cấp địa chủ, thành một thế lực
lớn mạnh nhất thao túng làng quê. Hoe Giao, tay bợm trạng xung đội du kích xã
vác thanh đại đao trên vai, áp giải ông chủ tịch xã Tùng. Ông bị hắn trói giật
cánh khỉ bằng một sợi dây thừng to tổ bố đi nghệu nghễn ngoài đường. Hắn vào
nhà Hoe Hoét, sợ ông bỏ trốn hắn trói nghiến ông Chủ tịchđáng kính vào gốc dâm
bụt như trói chó làm mặt ông biến sắc nhăn nhó, đứng cũng không được, ngồi cũng
không xong. Tôi đi ngang qua bắt gặp cặp mắt ông van lơn thấy mà thương. Ông
Chủ tịch lãnh đạo xã nhà từ sau cướp chính quyền đến giờ rất có uy tín với dân
làng bởi đức độ hiền hậu và tính mẫn cán trong công việc. Ông bị tội gì đây ?
Tội phản động !
Gia
đình cha tôi bị quy là địa chủ thường, sau khi đã trừ đi những tình tiết giảm
nhẹ vô cùng quan trọng là có người anh
thứ 3 Thái Doãn Hợi quân cách mạng, vừa mới tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ
lẫy lừng. Ông bị quy kết ba tội : 1-Trí thức (biết tiếng Pháp đích thị là tay
sai gián điệp của bọn thực dân Pháp; biết chữ Nho đích thị là tay chân cho bọn
phong kiến), 2- Phú: Gia đình máu mặt có 7 gian nhà ngói, ao dưới vườn
trên; 3- Địa: có những 2 mẫu 3 ruộng tự cày cấy. Vẫn là theo chuẩn của cương
lĩnh Tổng bí thư Trần Phú vạch. Thoạt đầu cha tôi thoát án tử, rồi hạ xuống 20
năm tù giam cũng thoát nốt. Ông anh ở chiến trường đã đỡ thay cho bố thoát khỏi
tử hình và tù tội, lợi hại thật. Nếu thế thì rất tiếc không động viên anh Sửu
(chưa đủ tuổi) ra lính luôn - mẹ tôi tiếc rẻ - không chừng nhà ta chẳng bị
thành phần cũng nên !
Ngày
tịch biên gia sản đến. Một lũ khố rách áo tải 13 gã đàn ông 3 mụ đàn bà chân
đất đầu trần sát khí đằng đằng, quần nâu áo cộc, tay thước tay dao xông vào nhà
như chốn không người. Cha mẹ tôi bị du kích cầm gươm khống chế ngay. Họ đọc
quyết định trưng mua 2/3 gia sản, đuổi cả gia đình tôi xuống mấy gian nhà ngang
lợp tranh tá túc. Họ lục lạo, xô cái tủ đẩy cái ghế kêu rít lên. Ảnh chân dung
của cha tôi bị giật xuống, gạch chéo mặt, vứt xuống sàn xéo lên cho hả. Tôi
muốn thét lên, nhảy xổ vào thằng người thú cấu xé, nhưng sợ lưỡi gươm lăm lăm,
lại thôi. Rút kinh nghiệm Cải cách ở Hà Tĩnh trước đó một năm, mẹ tôi là người
đàn bà đảm lược, quyết không để của cải mồ hôi nước mắt của mình tạo nên lọt
vào tay bọn nhác làm siêng ăn đã sơ tán triệt để những thứ quý giá cho bà con họ hàng tâm phúc giữ. Cái
nào cồng kềnh quá thì thôi hoặc bán tống bán tháo.Thành thử khi Ban thu mua vào
nhà thực thi công vụ thì chỉ còn cái xác
nhà trống. Chúng bực tức hậm hực, truy cứu vàng giấu chỗ nào ? Tôi 12
tuổi và em Tâm 7 tuổi bị tách ra hai nơi để khảo vàng. “Thằng anh mày khai rồi,
mày không khai tao cho một nhát gươm bây giờ.” Tâm một mực “Tui không biết”.
Tôi bị một con mụ lải nhải tra khảo hoài, bực mình tôi chỉ tay lên ngọn dừa bên
ao. Một thằng đầu trọc nhanh nhảu trèo lên lục lạo khắp nơi, bỗng nó la ré lên
như phải bỏng, vội vàng tụt xuống gốc cây, mặt và người đầy kiến lửa. Nó chạy
lại cho tôi một thoi như trời giáng vào mặt “Mày chơi khăm ông à?”.
Khi
vào kho khám xét, người ta không tìm thấy gì, chỉ có đôi bồ con năm 1953, anh
Hợi đi dân công Thượng Lào đem về. Trong bồ có gì ? Một mớ khoai dong chuột gặm
nham nhở. Nhìn sang bên có một cái sàng đựng mớ rau má khô còng queo. Ông Đội
ái ngại nhìn cốt cán Hoan “Thật tao không thể tưởng tượng nổi, cả gia đình 7
miệng ăn mà không có lấy một hạt gạo !?
Không hiểu chúng nó sống bằng gì ?”
Đến
non trưa thì cuộc khám xét trưng mua và biên bản đã hoàn tất. Cái gì tốt họ mua
như 7 gian nhà lim cổ, dong, gường mođen, sập, tủ gụ, còn cái gì cũ nát không
dùng được thì tống xuống nhà ngang phần gia đình bọn tôi. Họ niêm phong nhà,
giao một biên bản trưng mua cho cha tôi. Mua nhưng không có giá tiền, không hẹn
bao giờ trả tiền. Vĩnh viễn không có tiền trả ?
Khi
bọn đầu trâu mặt ngựa đi khỏi, tôi dùng nước thấm vào băng niêm phong mở cửa
vào nhặt bức hình chân dung cha tôi. Tôi ôm vào ngực, lòng dào lên nức nở. Đứng trước phòng ngủ đêm qua của cả nhà ấm
cúng là thế nay thuộc kẻ khác rồi mà cám cảnh trời đất. Về sau, tôi đã bảo vệ
bức hình cha tôi cẩn thận, dùng kỹ thuật hiện đại phục chế nó hoàn hảo hôm nay
mới có đăng kèm theo bài này như bạn đọc thấy đấy. Đó là bức hình cha tôi chụp
trước lúc người đầu đội vòng nguyệt quế ung dung đi vào bóng tối của nhà tù đế
quốc 1931.
Cha
tôi chỉ bị đưa ra Hội quán chòm đấu tố nhiếc móc một đêm. Vì chẳng có tội gì cả
ngoài việc dạy chữ mở mang tâm trí bọn trẻ, ông tiệt không gây ra một ân oán cá
nhân nào. Ông hiền có tiếng, đi đường hễ gặp đàn kiến hành quân qua, ông xuống
xe nhấc hai bánh để không cán lên chúng. Bà con thương tình chỉ lườm nguýt qua
quýt cho xong chuyện. Riêng ba gia đình lão bộc Duận, Nhã, Bon gia nhân của cố
cụ Tuần tôi đều lên kể nhân đức Cố tiếp đến chuyện cha tôi đã
chăm sóc họ tử tế như thế nào từ chuyện cất nhà, dựng vợ gả chồng cho
con cái họ… làm ông Đội cạu mặt đuổi huầy huậy xuống đài đấu.
Từng
ấy cũng đủ hạ uy thế cha tôi, đường đường là một ông giáo đạo cao đức trọng.
Ông co vào nội tâm sống âm thầm như chiếc bóng. Buồn nhất là khi đấu tố ở xã,
cha mẹ tôi và chị Thanh lớn tuổi bị nhốt vào chuồng như nhốt thú dành riêng cho địa chủ. Ông thấy nhục, cúi gằm mặt
xuống đầu gối. Thỉnh thoảng một gã oắt du kích vác thanh kiếm cùn đi tuần qua
thét “ngẩng mặt lên, thằng kia”. Cha tôi ngửng mặt lên bắt gặp ánh mắt của
thằng học trò, mắt hắn cụp lại lảng sang chỗ khác. Chiều ấy, tôi đi đào rau má
ở Bạch Ngọc cách nhà 15 cây số, được một gánh đầy nhóc, ra sông Lam chỗ đền
Miệu nơi có cây búp quả linh thiêng xổ sạch bùn đất, cùng O Niêm con chú Trị
gánh về.Tôi bỏ vào kho, ra lu tọc một gáo nước lã, rồi nhảy chân sáo xuống Đồng
Lạc coi đấu địa chủ. Tôi dè dặt đi lại chuồng nhốt cha mẹ và chị tôi. Cha me và
chị ngước nhìn tôi mừng rỡ. Tôi khoe với người là đào được một gánh rau má tươi
non.”Ôi con tôi giỏi quá” - mẹ khen. Tôi mon men lại gần khu trung tâm đấu tố.
Một tấm phông màu cháo lòng như cánh buồm
no gió trên can quốc kỳ và ảnh bốn lãnh tụ hai Tây hai ta: Mã khắc Tư
(Mác) - Tư Đại Lâm (Stalin) - Hồ Chí Minh – Mao Trạch Đông. Trên bàn chủ
tịch đoàn kê cao hơn đầu người gồm có Chắt Hoan cốt cán là chánh án, ông Đội
mặc y phục quân nhân bạc màu trong vai cố vấn, ả đĩ Thắm, hai gã trai cày không
rõ tên chuyên cày thuê cuốc mướn, không biết chữ làm bồi thẩm đoàn. Người ta
lôi ra trước vành móng ngựa ông Phan Tư Giản một địa chủ biết làm ăn nhất ở Hội
Tâm. Một ả nông dân chân đất mặt như Thị
Nở chạy choi choi lên, nắm chặt tay dúi lia lịa vào đầu kẻ thù của mình. Ả kể
lể “Mày bắt tao làm lụng suốt ngày đêm không cho nghỉ ngơi, ăn thì toàn đồ thừa
vợ chống mày thải ra. Ngày nọ mày đè sấn tao bên bụi khoai môn mày hiếp tao.
Như thế này ! Thế này ! Cái thằng bạo
dâm chết dẫm”. Ông Tư Giản ngẩng cao đầu hắt ra một câu “Cái thứ đĩ rạc ma chê
quỷ hờn như mày nằm ngửa giữa đường chó nó cũng không thèm đ. chứ là tao”. “Đả
đảo địa chủ ngoan cố” - tiếng hô đả đảo dậy trời từ một rừng cánh tay vung lên
căm giận ngút trời…
Đấu
một chặp nữa, đến trưa, tội trạng bóc lột nông dân đến tận xương tủy đã phơi
bày rõ ràng. Toà nhân danh công lý của
nông dân tuyên ông Giản 15 năm, phạt 5
năm về tội ngoan cố không chịu khuất
phục nông dân. Tổng cộng hình phạt lên đến 20 năm tù giam..
*
Buổi
sáng ấy, chúng tôi đang ngồi học trong lớp nơi sơ tán nhà ông Cẩn thì nghe
những phát súng trường chát chúa nổ rất đanh, gần lắm.Thầy Thạc Tân cho lớp
nghỉ giải lao, chúng tôi chạy ùa ra phóng xuống cánh đồng xem bắn địa chủ. Đến
nơi, thấy một xác người nằm còng queo dưới huyệt hai tay vẫn bị trói dật vào
cây cột tre, máu sủi bọt từ những vết thương bị đạn phá ra to bằng cái dĩa. Một
du kích dùng kiếm chặt đứt những nuôộc trói, kéo tóc bật ngửa mặt người chết
lên. Trời, thì ra là Thái Doãn Thi – bác họ
của tôi. Một người nông dân hiền lành cơ chỉ biết cách làm ăn, ông chết
vì tội gì vậy ? Mãi sao này tôi mới biết “tội” của ông là: năm 1953, chính trị
viên tiểu đoàn Thái Doãn Mậu chỉ huy đánh chùa Non Nước Ninh Bình. Trên đường
khải hoàn đi qua cánh đồng Pháp câu moócchiê ông bị trúng đạn tử thương tại
chỗ. Thương em trai, ông Thi len lỏi từ
vùng tự do khu Bốn vào vùng địch hậu tìm hài cốt của em. Cuộc đi không thành.
Đến Cải cách ông Thi bị khép vào tội tử “nhảy vào vùng tề ngụy, cấu kết với bọn
công giáo Phát Diệm chống phá cách mạng”. Trước đó, trong giảm tô ông anh Cả
của ông Thi là Thái Doãn Yết cũng bị bắn đợt đầu. Ông Yết là người sáng lập ra
chi bộ Đảng đầu tiên của xã Yên Hòa (thời đó gồm 3 xã Thịnh Sơn, Hòa Sơn và Bài
Sơn), huyện Anh Sơn (nay là huyện Đô Lương), và nhận lãnh chức vụ bí thư. Theo
chỉ thị của bí thư đảng Vầng Hồng nhà doanh nghiệp đồ gỗ là ông Cửu Thiện, Thái
Doãn Yết được biệt phái sang hoạt động hai mang bên địch với vai bang tá. Lịch
sử Đảng bộ xã Thịnh Sơn viết “Khiếp nhược trước uy vũ của thực dân Pháp, Thái
Doãn Yết đầu hàng giặc làm tay sai cho chúng chống phá lại cách mạng”. Đến Giảm
Tô, ông lãnh án tử hình vì tội “phản bội” đó. Rất tiếc nhân chứng sống duy nhất
là bí thư Cửu Thiện bị xử lý trước đó.
Một
nhà ba anh em tham gia cộng sản, ba đảng viên, cả ba đều chết vì tay cộng sản.
Cho đến nay Đảng bộ xã Thịnh Sơn vẫn
ngủ yên trên sai lầm tai quái này !
*
Sáng
nay anh em chúng tôi lại vào rừng như thường lệ. Hôm nay có cha đi theo để kiếm
cái mỏ cối đạp mà cả tháng nay ông lục cục đục đẽo chưa xong. 5 giờ sáng. Đêm
còn tối bưng. Chúng tôi quen rồi với cảnh âm phủ suốt hơn năm sống nhờ rừng,
nên bước đi vững chãi. Cha tôi không quen bóng tối chân nam đá chân chiêu trông
đến tội. Đường theo lối sỏi thân quen lượn lờ quanh đồi núi. Được nắng hương cỏ
mật hai bên vệ đường dâng lên ngào ngạt, đầy cả hai buồng phổi. Khí rời mát mẻ,
se se gió lạnh. Xa xa, đôi chim từ quy khắc khoải gọi tàn canh. Phương Đông màu
trắng ửng dần sang hồng. Bọn tiều phu chúng tôi đi trong bình minh rực lửa và
râm ran tiếng gà. Đây là làng Yên Bài, nối tiếp dãy lèn Yên Mỹ với Mỏ Diều hùng
vĩ, vượt qua quãng đồng Tiên Cảnh có ngôi mả ông ăn mày to như trái núi con bởi
ông ta chết vào giờ thiêng, đây rồi Khe Nước Nhỉ - nơi chúng tôi thường nghỉ ăn
trưa, uống nước, tiếp đến làng Hậu Trạch lơ thơ dăm mái lá hiền hoà. Đi một đỗi
ruộng bậc thang nữa thì đến bìa rừng. Cha theo kịp nhưng khá vất vả, thở dốc ra
khó nhọc. Kia rồi, một súc gỗ dẻ nằm lẫn trong đám lá dẻ khô queo. Anh Hảo gạt
mấy cành nhánh, lộ ra gốc cây ngon lành. Anh Hảo nói “Cha chặt cây này khoảng
độ 1m 2, rồi ra điếm canh nghỉ ngơi ăn cơm, xong vác về trước. Các con còn đi
sâu vào rừng mới chặt được củi” . Nói rồi, anh em chúng tôi xăm xăm đi. Rừng
bỗng trở nên yên ắng tịch mịch. Có tiếng gọi với theo “Các con ơi, sao nỡ bỏ
cha giữa rừng già thế này”. Tôi chạy quay trở lại. Ông sợ run bắn lên. Tôi trấn
an ông “rừng ở đây hiền hòa không có thú dữ đâu cha”. Ông hơi yên dạ vung rựa
lên đẵn vào cây thiết mộc.Tiếng cum cum vọng lên từ thung lũng như khắc vào hồn
tôi như chạm vào hồn rừng từng nhát từng nhát khắc khoải nhói đau. Tiếng cum
cum yếu dần, thưa dần rồi im bặt. Tôi đâm hoảng sợ có gì bất trắc, định chạy ra
thì anh Hảo xua tay “không việc gì đâu, lo làm khẩn trương lên tránh cơn giông
kia kìa”. Đến trưa mặt trời lấp lửng trên đỉnh rừng anh em gánh củi ra thì thấy
khúc gỗ dẻ đã đem đi rồi, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Tháng trước, dượng Thung
cũng vào rừng này chặt gỗ dẻ về làm cối xay, bị cây thoi từ trên xuống gãy đầu
gối, máu xối lênh láng, không ai cứu kịp đã tử vong.
Rừng
Hậu Trạch là ân nhân của chúng tôi, cứu cả vài chục gia đình địa chủ thoát chết
đói, vốn bà con họ hàng dây rau rễ má liên kết
đùm bọc lại cùng nhau để sống. Rừng cho chúng tôi củi, lá dong, hạt
muồng, củ nâu, hạt dẻ, lá lốt, lá trầu rừng, chạc chìu, cánh kiến, sa nhân, mật
ong, thú rừng… mùa nào thức ấy, bất cứ cái gì cũng đổi được ra gạo, khoai, ngô.
Con cháu địa chủ đông đến mấy trăm người, cứ bảnh mắt là lùa vào rừng, gánh củi
luôn ra chợ Tràng, chợ Lường, chợ Xóm Giếng bán, mua thực phẩm, tối mịt mới về
nhà, đi không ai thấy về không thấy ai. Rừng Hậu Trạch là thế giới riêng là
công quốc tự do không có hung thần Đội Cải cách của những người bị nạn. 12
tuổi, tôi đã sống hòa vào người thân cảnh đời của Thạch Sanh hàng năm trời
“Rong rêu mọc, nước suối tuôn - Đỡ lòng ngồi ngắm giang sơn chuyển vần”.
Các
bạn tiều phu bất đắc dĩ của tôi ơi, sau này dẫu đi bốn phương trời: Mỹ, Anh, Pháp, Canađa,
Úc…các bạn còn nhớ chiến khu nơi cưu mang nuôi sống chúng ta không những năm tháng
gieo neo vận hạn kiếp người ? Còn tôi, tôi luôn đau đáu nhớ về những cánh rừng
Hậu Trạch, hễ nhắc đến là chực trào nước mắt.
*
Cha
tôi có người chú út là ông Thái Doãn Châu. Ông Châu làm nghề dạy học kiêm thầy
lang thuốc Bắc. Ông giáo Châu người quắc
thước có ánh mắt nhìn dữ, tiếng nói
oang oanh quát tháo như lệnh vỡ. Chỉ có mẹ tôi là chế ngự được ông. Ngày giỗ Cố
cụ Tuần, ông bao giờ cũng đến muộn, ngồi độc một mâm trên cao chửi mắng con
cháu hết điều khi rượu vô. Cải cách đến ông lâm vào cảnh đói, bốc thuốc không
có khách. Ông thường ngồi thừ một xó vuốt bộ râu rậm rì, nghĩ ngợi kế sinh
nhai. Quẫn quá, một lần dân làng thấy ông đang ngồi xóc chiếc điếu cày sau cái
giếng đất cuối làng. Người ta báo với đội Cải Cách. Đội sai dân quân du kích gô
cổ ông. Tội danh đánh thuốc độc vào
giếng đầu độc dân làng, buộc ông lãnh 20 năm tù. Tưởng vào tù có cơm ăn, ai ngờ
chỉ sau hai tháng ông bỏ mình trong trại tù Bến Hới.
Ông
để lại cho cha tôi tủ sách thuốc hàng trăm quyển. Cảm thương cái chết oan uổng
của chú ruột, lại không có việc gì làm, ông cắn răng bấm bụng đói meo đọc sách
thuốc quyết nối nghiệp thay chú cứu nhân độ thế. Thoạt đầu ông chữa những bệnh
đơn giản cho những người thân trong nhà. Thấy được, ông dấn lên đọc tài liệu,
luyện nghề cho tinh thông. Tiếng lành đồn xa, người ta tìm đến ông như tìm đến
một cứu nhân. Ông nổi tiếng thầy lang mát tay, giỏi nhất là chữa bệnh nhi khoa
và phụ khoa. Ông bắt mạch kê toa không lấy tiền. Thương ông, bà con đem biếu
thầy mớ khoai, củ sắn, bò gạo để ông giáo đắp đổi qua ngày. Sau này, khi đã có
thương hiệu, ông vẫn chứng nào tật ấy, không lấy tiền của bà con, hoặc nếu có
lấy thì lấy chút ít cho có lễ để ông bà đủ sống và bù trì cho người nghèo hơn.
Một lần tôi thấy một bệnh nhân nam rách rưới, da mặt ưởi, bủng beo đến xin ông
chạy chữa. Cha tôi khám kỹ, rồi cho đơn. Ông viết bằng chữ Hán đẹp như vẽ. Cầm
đơn thuốc trong tay, người bệnh tần ngần. Hiểu ý, ông mở túi cho hai hào tiền
thuốc. Bệnh nhân cảm ơn rối rít. Ra về đến ngoài ngõ, ông gọi giật lại, nói “bà
ơi cho cháu này xin 2 bò gạo”. ông bảo tôi “Uống thuốc mà không có gì ăn thì
làm sao khỏi bệnh”. Tôi đã vỡ nhẽ ra tất cả. Trong nhà cha tôi chỉ tôn thờ một
câu châm ngôn của Danh sư Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác “Nhân nghiã trân tàng bất hoán phương” [Cái nhân nghĩa là của quý
giá nhất phải biết bảo tồn không bao giờ thay phương đổi hướng]. Trong ngôi nhà
tranh vách đất chỉ có câu
Bức họa châm “nhân nghĩa trân tàng..”
hiện treo tại thư viện Thái Doãn Hiểu
kim
chỉ nam ấy là sáng rực lên một vùng bởi nét chữ bay bướm như rồng múa phượng
chầu. Sau ngày ông mất, tôi giữ gìn bức châm ấy như giữ linh hồn của ngôi nhà,
dù tôi ở quê hay ở nhà riêng Sài Gòn. Tôi thích nó và quyết tâm sống theo lễ
nghĩa đó.
Cha
tôi là người hiếu học. Sự hiếu học xuất phát từ tinh thần trách nhiệm với người
bệnh. Ông học theo lối kiến văn là chính cộng với rút kinh nghiệm từ các ca
bệnh nhưng không quên chính danh về mặt bằng cấp. Ông đi thi để lấy bằng sơ cấp
ở huyện, thi lấy bằng trung cấp ở tỉnh hội Đông y. 70 tuổi ông còn lóc cóc ra
tận Hà Nội đến TW Hội Đông y thi lấy
bằng Bác sĩ đông y (đại phu). Việc này diễn ra đúng 10 năm !
*
Tôi
đi làm thầy giáo vào năm 1960. Chính
thức đứng trên bục giảng năm chưa đến 17 tuổi. Cha tôi lo lắm “Không biết nó
làm ăn ra sao. Dù gì thì nó vẫn còn là đứa trẻ” – Cha tôi nói với mẹ - “đêm ngủ phải có cha, không rời nửa bước”.
Nói rồi, ông đi lên trường cấp 2 Cao Sơn, Anh Sơn nhiệm sở của tôi. Ông lân la
hỏi mấy vị đồng nghiệp đồng môn về sự dạy dỗ của tôi. Anh Bính thưa: “Bác đừng
lo, tuy trẻ người nhưng anh ấy già tay nghề lắm. Học trò ở đây lống con, có em
đã từng đi bộ đội tham gia chiến dịch Tây Bắc, giải phóng Điện Biên về học. Họ
lớn hơn thầy giáo cả chục tuổi nhưng vẫn thấp hơn thầy giáo cái đầu. Họ dày dạn
bom đạn nhưng lại nơm nớp sợ thầy Hiểu nổi trống truy bài”. Ông xin thầy hiệu
trưởng dự giờ dạy của tôi rồi mới yên tâm quay về nhà. Hai năm sau, tôi thuyên
chuyển lên Dừa, trường cấp 2 Hùng Sơn, cha tôi nhớ con lại lên thăm. Đường xa
38 km, ông thường cuốc bộ, ít khi mua được vé xe khách quốc doanh. Có lần ông
lên và tôi về. Hai cha con gặp nhau ở lèn Kim Nhan. Dáng ông phăm phăm sải dài
trên con đường vắng, nắng chiều dát vàng lên đỉnh núi Kim Nhan rực rỡ. Hai cha
con ngồi nghỉ dưới khoảng rừng thưa, bạch đàn lao rao nắng, tiếng chim cu gù
đầm ấm gần xa, sông Lam như một giải lụa mềm mại vắt qua núi non xanh biếc.
Sau
này, 1976 vợ chống chúng tôi chuyển cư từ Hải Phòng vào Sài Gòn định cư, dạy
trường Cao đẳng Sư phạm Tp Hồ Chí Minh, ông lại vào thăm. Bữa đó, tôi giảng bài Thu vịnh của Nguyễn Khuyến cho 12 lớp văn khóa 2 trên giảng đường
lớn. Không hiểu làm sao ông biết được và xin dự giờ. Anh Hoàng Xuân Tâm đành
phải tháp tùng hướng dẫn ông. Tôi thì trổ hết tài nghệ để chứng minh tính ưu
việt của học thuật phái đỏ, và để cha tôi biết sự trưởng thành của tôi. Dạy
xong, về văn phòng ông nói ngay “Cũng được, nhưng vẫn khai thác chưa hết ý. Bức
tranh tâm cảnh thì phải đánh từ trong ra chứ không phải ngoài vào”. Tôi tiếp
thu và về sau hoàn chỉnh nội dung và nghệ thuật bài giảng tốt hơn.
*
Vào
thập niên 70 của thế kỷ trước, Mỹ dùng không quân leo thang đánh ra cả nước. Cả
nước dốc người đi đánh Mỹ. Nông thôn miền Bắc rỗng người, chỉ có một
sư đoàn bảo vệ , còn lại người già trẻ
em, phụ nữ tay cày tay súng đảm việc nhà, nuôi con chờ chồng đến ngày
chiến thắng. Không một làng quê nào yên bình được với bom đạn. Làng tôi nằm
trên trục giao thông đường 7. Ngày, triền miên không lúc nào chúng ngớt đánh
phá. Đêm, pháo sáng từng đợt từng đợt đốt lựng, lũ ó lùng sục săn ô tô. Làng
tôi bị đánh không biết bao bận, nhưng kỳ lạ không ai nỡ rời làng. Ai cũng bám
chặt lấy làng như một lẽ sống. Lần bị bom chụp nặng nhất là năm 1973 cả làng bị tan hoang nát bấy,
người chết, gia súc chết ngổn ngang, mọi người
mới chịu dời làng lên núi.
Quê
mới có gì ? Có núi và rừng. Rừng núi cho cha tôi cả một kho dược liệu quý không
phải mua. Nguồn thuốc Bắc từ Trung Quốc sang bị giao thông chặn tứ phía. Sau
này, chiến tranh biên giới Trung Việt xẩy ra 1979, nguồn thuốc bị cắt hẳn cha
tôi cũng không hề lúng túng. Tuệ Tĩnh theo lệnh vua Lê Thái Tổ đi cống Minh rồi
bỏ lại thân xác ở quê người, nhưng vị Thánh Y này đã để lại cho cha tôi một bửu
bối “Người Nam
dùng thuốc Nam”.
Cha tôi đã triệt để khai thác nguyên lý chữa bệnh này và đã thành công. Trong
dược điển của cha tôi có hàng trăm dược liệu quý giá. Ông có thể chữa được hàng
chục thứ bệnh nan y mà Tây y bó tay. Cha tôi huy động bà con vào núi hái thuốc
đem về phơi đầy sân đầy vườn trạm y xá xã. Bà con chữa bệnh không tốn bao lăm
tiền
Những
năm chiến tranh gian nan đó, gia đình tôi chia xẻ ra ly tán mỗi người một
phương. Anh Hợi ở Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hòa Bình. Anh Sửu làm việc ở phòng
phổ thông Ty Giáo dục Phú Thọ. Anh Hảo dạy học ở Thanh Hóa đầu quân đi Thanh
niên Xung phong chống Mỹ, cứu nước tổng đôi TNXP Thanh Hóa. Tôi – Thái Doãn
Hiểu gia nhậpTNXP Nghệ An. Chị Thanh làm Thư ký Công đoàn Nông trường Quân đội
1-5 Nghĩa Đàn. Út Tâm đi dân công tải đạn chứa vào hang động Phong Nha Quảng
Bình. Chúng tôi toàn sống ở những trọng điểm đánh phá quyết liệt của máy bay Mỹ
: Cầu Hàm Rồng, Cầu Cấm, Truông Bồn…, suýt chết không biết bao lần. Cha mẹ tôi
sống ở hậu phương, ngày nào cũng cầu nguyện cho các con đi chân cứng đá mềm. Mẹ
còn phải giữ đám trẻ để phụ thêm công điểm hợp tác xã kiếm thêm chục cân thóc mỗi
tháng phụ vào đồng lương ít ỏi của cha 30 đ/ tháng.. Già rồi mà các cụ cơm
không được no, khoai ngô sắn độn cơm. Cả nước sống như thế cả.
*
Năm
1973. Lần ấy tôi từ Dừa ghé thăm nhà. Hai cha con chuyện trò đến tận khuya. 12
h hơn, bỗng có tiếng gõ cửa. Tôi ra mở. Một bộ mặt gớm giếc thò vào : cu Minh ở
sau nhà. Tên sát nhân đã từng đeo mặt nạ bắn bác Thái Doãn Yết đây mà.
- Có việc gì khuya khoắt thế này.
- Thưa ông, ông cứu con con với. Đã mấy ngày
nay nó bí đái không tiểu được. Con đã làm đủ mọi cách.
Tôi
đưa mắt nhìn cha tôi dò hỏi. Ông ngồi bật dậy với túi đồ nghề khoác vào tay:
-
Nào ta đi.
Đề
phòng bất trắc tôi vớ chiếc đèn pin soi đường đi theo hộ tống người. Đến nơi,
một thằng bé mặt xanh nanh vàng nằm thở khò khè trên chiếc chõng tre. Cha tôi
vạch áo khám cho nó, nấn khắp bụng, đến dương vật. Một hồi lâu ông hỏi cu Minh:
-
Nhà có bồ kết không ?
-
Dạ có nhiều ạ.
-
Lấy ba quả nướng lên hòa với nước sôi để nguôi cho uống cách nhau 2 tiếng một
lần. Ba lần thì khỏi bệnh. Xong rồi !
Ông
khoát tay tôi ra về.
Sáng
hôm sau, cu Minh sang nhà quỳ mọp xuống trước mặt ông Phật sống lạy như tế sao:
- Ông ơi, sao ông nhân từ thế. Một đời con chỉ
làm ác cho ông và gia đình ông. Sao ông lại cứu chúng con ?
Cha
tôi điềm đạm vuốt râu:
-
Cứu người là việc của thầy thuốc. Giết người là nghề của đồ tể, là lý tưởng
người ta dạy anh. Nếu anh thấy đúng thì cứ giết. còn nhược bằng anh thấy giết
người là tội ác dã man thì thôi ngay. Anh nên nhớ nhà Phật dạy: Ác giả ác báo.
Gieo gì gặt nấy.
Cu
Minh ửng đỏ mặt như đã thấm. Vẫn trong tư thế quỳ :
-
Con cảm tạ ông đã cứu con con và cứu vớt linh hồn con. Amen !
*
Bạn
đọc. Bạn sẽ hỏi Thái Doãn Hiểu viết văn đã thành danh, có chịu ảnh hưởng gì ở
cha mẹ của mình không ? Ảnh hưởng nhiều lắm chứ. Trên tạp chí Sông Hương cách
đây vài chục năm tôi đã trả lời phóng viên Dương Quang Minh -Vụ phó vụ Thông
tấn báo chí Văn phòng chính phủ rằng:
“Còn
một lý do rất đỗi quan trọng nữa tôi viết sách là để trả nghĩa cho hương hồn
Phụ Mậu tôi. Cha tôi là một nhà nho thanh bạch, đi dạy người và làm thầy thuốc
đông y cứu nhân độ thế. Cha mẹ tôi không để lại cho tôi một cây chỉ nào cả,
nhưng người đã để lại cho tôi một tài sản tinh thần vô giá. Cha tôi sống rất hiền
đức, là đồ đệ của Lão Tử, Thích Ca, ông chủ trương không chống lại đều ác bằng
bạo lực. Cha tôi là một nhà giáo mô phạm từ chữ viết, lời nói, quần áo, tư
tưởng, tác phong, một thầy thuốc có y đức lớn xứng đáng là đồ đệ của Hải Thượng
Lãn Ông và Tuệ Tĩnh. Còn mẹ tôi - người là biểu trưng cho người phụ nữ Việt Nam
hay lam hay làm, hệt như bà Nguyễn Khuyến. Mẹ làm lụng quần quật từ bảnh mắt
cho đến tận khuya, quần áo lúc nào cũng ướt sũng mồ hôi. Tôi thừa hưởng những
nết tốt đó. Có thể nói: tôi viết sách dưới ánh sáng đức nhân của cha, miệt mài
thức khuya dậy sớm bằng cái cần mẫn của mẹ. Không thừa nhận có ngày chủ nhật và
ngày lễ, tôi làm việc đều đặn không dưới 14 tiếng mỗi ngày, chỉ nghỉ ngơi bằng
cách thay đổi hình thức công việc. Tôi viết với tất cả nỗi đam mê vốn có, và cả
sự cưỡng bức lao động chính mình”.
Lần
nọ, 1987 từ Sài Gòn về thăm nhà, cha tôi
bảo “Cha yếu lắm. Nghỉ hưu, chẳng có việc gì làm, lại không có lương hưu. Ăn
rồi lại ngủ, chẳng biết đi đâu, chơi với ai nơi khỉ ho cò gáy này. Thôi để cha
về với ông bà Tổ tiên. Đa thọ đa nhục”. Tôi động viên ông , “cha thường làm thơ
Thọ trường trăm tuổi danh thơm sẽ về. Danh của cha đã thơm rồi, nhưng cây cao
bóng cả vẫn là nơi các con được nương nhờ”.
Tôi lại hỏi cha “Nếu phải từ biệt thế giới đầy khổ nạn này, cha thương
tiếc nhất cái gì ? “Không tiếc gì cả, những thứ cha mong đã có hết, cha chỉ
thương 7 đứa con yêu quý của cha. Chị Cả Thiệu
đẹp người tốt nết, hiền hậu. Chị Thanh đảm đang chạy chợ ngược xuôi cứu
cả gia đình khỏi chết đói qua ba cơn hiểm họa. Hy sinh lớn, vì thế, chị con đâm
ra công thần thao túng mọi việc trong nhà. Thật tội nghiệp và bất hạnh sống
không chồng con. Anh Hợi có cái chín chắn đức độ của một người từng trải trận
mạc và nhân tình thế thái. Anh sẽ là
người con trai duy nhất ở bên cạnh cha cho đến phút cha lâm chung. Anh
Sửu hào hoa phong nhã, nói năng lợi khẩu bặt thiệp, ước gì được nấy, muốn là
ông Đốc khi ba tuổi về sau làm Đốc học suốt đời. Anh sống hơi vị kỷ, thời trẻ có ý oán hận đã trót thác sinh vào
gia đình ta làm cản đường tiến chính trị của mình. Anh Hảo kiến văn hạn hẹp,
nhìn đời, nhìn người, nhìn sự việc rối. Hay nói, nói nhiều, nên lầm lẫn; được
cái tính tình vui vẻ, ruột để ngoài da, hay trạng, luôn giữ trong mình một đứa
trẻ con cho đến già. Còn con - Thái Doãn
Hiểu tài hoa, chịu học, sống vị tha, con sẽ làm nên nghiệp văn lớn, hậu vận con
cháu tốt tươi. Cha kỳ vọng ở con. Có điều cầm bút phải lo là tai nạn nghề
nghiệp “Thủ thân vi đại” [giữ mình là việc lớn]. Con thấy đó, trên tấm hoành
phi đặt ở nhà thờ, Tổ tiên ta chỉ để lại ba chữ “Di dĩ an” [lấy cái bình yên để
lại cho con cháu]. Còn út Tâm, đứa con út da trắng tóc vàng cùng chồng là thuyền trưởng viễn dương Vương
Đình Đỉnh lúc nào cũng chỉ lo đói nên tằn tiện tích cốc phòng cơ đến là… khu
đỉn. Giàu có nhưng lệ thuộc đồng tiền, làm cho chất lượng cuộc sống thấp. Được
cái em nó biết căn cơ từ lúc 5 – 7 tuổi, cái đận cả nhà vào rừng, ở nhà một
mình Tâm biết hái rau tập tàng, kiếm cái mẻ bác nấu canh muối cho cả nhà ăn”.
Trong 7 anh chị em, mỗi đứa mỗi nết, chỉ có anh Hợi và Hiểu là hiếu đễ bậc
nhất, không bao giờ sao nhãng việc nuôi thân dưỡng tâm cho cha mẹ. Cha cảm ơn
các con. Cha biết ơn các con, cả 4 con trai đều phát huy truyền thống võ công
và văn trị của dòng họ Mạc nhà ta, nối nghiệp nho gia của cha – cái nghề dạy
người thật thanh bạch, nghèo chút nhưng sống ra con người”. Nói đến đây ông
rung rung chòm râu, rơm rớm nước mắt. “Còn mẹ thì sao cha ?” “Không có mẹ thì
cái nhà này không thành. Mẹ là nội tướng quán xuyến trong ngoài, bếp núc đỏ
lửa, mâm cỗ cúng tế Gia tiên tươm tất, đối nhân xử thế với họ hàng nhân hậu
lịch lãm, người hy sinh tất cả để tái tạo, dẫn dắt tương lai. Cha con ta chịu
ơn mẹ nhiều lắm”.
“
- Thế cha có oán trách ai không cha ?” Ông lặng đi một lát rồi cất tiếng -
“Ngồi buồn mà trách ông Xanh – Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười”. Trách ai
được con. Thực ra thì họ cũng là nạn nhân. Nạn nhân của sự ngu dốt, tham lam và
đố kỵ. “Nhân chi sơ tính bản thiện” – thầy Mạnh Tử bảo thế, nhưng Tuân Tử ngoặc lại “Nhân chi sơ tính bản ác”. Cái xứ mình nó
thế. Không có gì nhân đức bằng con người nhưng cũng không có gì tàn ác bằng con
người. Thôi thì, có thân có khổ, có khổ mới nên thân. “Cha có nhận xét gì về
những cuộc cách mạng long trời lở đất tràn qua quê ta và giày xéo lên cuộc đời
của cha ?” “- Cách mạng !? nó không đem lại mục đích gì cao quý ngoài sự đổ vỡ
và chết chóc. Cuộc cách mạng mà con gọi là long trời lở đất đó đã giáng một đòn
chí tử vào xương sống đạo lý, tín nghĩa dân tộc được thiết lập xây đắp hàng
nghìn năm, nó tiêu diệt những đầu óc biết làm ăn và quản lý kinh tế ở nông thôn
và thành thị, nó triệt hết trí thức hiền tài nguyên khí của quốc gia. Không
hiểu làm sao người ta lại dại dột chọc tay vào mắt mình” “ – Cách mạng là phản
cách mạng – ông Mabớp triết gia Pháp đã nhận xét về những cuộc cách mạng tư sản
như vậy đấy”.
Sang
năm sau, 5-12-1988 cha tôi đi thật. Ông bị tiêu chảy, không chữa, hai ngày thì
mất. Bà con họ hàng quyến thuộc, những bệnh nhân khắp huyện nghe tin thương
tiếc một người hiền. Họ đến đưa tang
đông chật cả thung lũng Cây Chanh để vĩnh biệt vị bồ tát ân nhân cứu khổ cứu
mạng của mình. Ngày cha mất, tôi không
về chịu tang được vì không có một đồng tiền nào cả. Khốn nạn thân tôi
với cái nghề cao quý chết đói. Việc này cha tôi đã dặn rồi “Cha chết thì đừng
về, đã có họ hàng bà con ngoài này lo. Về thì mang công mắc nợ khốn thân
con”. Tôi cùng út Quỳnh nằm khóc
cha suốt ba ngày ba đêm, mắt sưng húp
không nhìn thấy gì cả
Sinh
1904. 11 tuổi (1915) mồ côi cha, cùng người mẹ trẻ nuôi nấng và dẫn dắt một bầy
em lít nhít 4 đứa. 15 tuổi (1919) thay cha chăm sóc ông nội ốm liệt giường. 22
tuổi (1926) – (1945) làm giáo sư Hương trường. 24 tuổi (1928) bất bình với
Pháp, tham gia hoạt động cách mạng. 26 tuổi (1930) vào tù bởi vụ Xô viết Nghệ
Tĩnh. 27 tuổi (1931) gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. 41 tuổi (1945) tham gia
cướp chính quyền ở địa phương, làm Chủ tịch làng Kim Liên. 42 tuổi (1946-1948) Trưởng ban Bình dân
học vụ xã. 49 tuổi (1953) mắc phải vạ vu khống làm Bộ trưởng Giáo dục. 51 tuổi
bị quy là địa chủ. 56 tuổi (1960- 1987) làm Bác sĩ Đông y trực trạm xá xã Thịnh
Sơn. Năm 85 tuổi (1988) giã từ cõi thế.
Con
Rồng đất đã giáng mang người đi rồi ! Thái Trung Tiên! ông Tiên giữa đời đẹp
lão, vị trích tiên đạo cốt đã về Trời thật rồi ! Adi đà Phật !
Một
buổi sáng vào năm 2009, khi còn ở trên nhà viết Hương Viên Các, Gò Vấp, tôi thức dậy thì liền thấy cha tôi ngồi
cạnh bên, âu yếm nhìn tôi như hồi còn tấm bé, như hồi cha con tôi háo hức thức
đón giao thừa bên mâm cỗ Tết cúng Gia tiên. Tôi thảng thốt kêu lên “Cha ơi cha
! Con đây!”. Tôi đưa tay ôm chầm lấy người. Ông biến mất. Thì ra hình tôi chiếu
vào trong tấm gương soi trên cánh cửa tủ đặt cạnh giường.
Buồn.
Bâng khuâng suốt cả một ngày trời...
Bao
nhiêu ảnh hình thân thuộc theo ký ức lại hiện về. Này đây, cha đang đi chân
nâng - ồ không người đang đi trên mặt nước sông đào xanh trong như đi trên đất
đầy khói sương; này đây cha đang rung đùi và cười vang khi một sáng tìm được tứ
thơ “Thanh nhàn vui vẻ là người thần tiên”; này đây, cha tỉ mần gắn kết từng cái
bát yêu sứ vỡ bằng xi măng để có cái ăn
đồ đựng cho cả nhà; này đây, cha đang phá vườn để trồng toàn thuốc nam chữa
bệnh cho dân; này đây cha an ủi và dặn dò bệnh nhân bằng vẻ mặt ân cần từ tâm,
tôi cứ ngỡ như Hải Thượng tái thế; này đây cha con ta đang trò chuyện y đức y thuật, chuyện trước tác của tôi
trong hầm rồi ngủ quên lúc nào không hay, cứ
đinh ninh có bốn bao thuốc nam
sơ chế
che chắn bom đạn an toàn cho cha con mình tròn giấc; đây nữa cha cùng mẹ
đứng trước một vườn cải rực rỡ hoa vàng rù rì đàn ong đến hút mật; và đây cha
râu tóc bạc phơ quây quần giữa con cháu đến mừng tuổi thọ…
Cha
ơi, con xót xa và tự hào về cha ! Cha đã vượt qua những chặng đường khổ ải với
nhiều ân oán của bọn lang băm chính trị đểu cáng để trở thành vị Phật sống luôn
hiện hữu giữa đời.
Thân phụ tôi.
THÁI DOÃN HIỂU
Cha
tôi sinh năm Thìn (1904), và người mất cũng năm Thìn (1988). Những hai con Rồng
cơ đấy! Ông cưỡi Rồng đến với thế giới hoang dã này và giã từ thế kỷ máu lửa
đầy giông bão này cũng trên mình Rồng. Nhưng rất tiếc con Rồng của cha tôi chỉ
là Rồng Đất, Rồng giáng chứ không phải Rồng thăng. Bạn thử nhìn kỹ coi. Nó
không có vảy, nghĩa là Rồng lươn như thời nhà Lý. Nó chỉ giỏi bò và trườn hệt
lươn. Náu mình trong đầm phá, bao phen Rồng cất mình bay là là trên mặt nước
rồi bổ nhào đâm đầu cắm xuống bùn, suýt chết.
Năm
2000, đón chào thiên niên kỷ mới anh em nhà chúng tôi dù tứ tán khắp nước nhưng
đều nhận được tập hồ sơ tù của cha tôi Thái Doãn Tiên cùng chú Út Thái Doãn Nghiên do Viện Bảo tàng Xô viết
Nghệ Tĩnh gửi. Thật xúc động khi nhìn
gương mặt trẻ của cha chú đầu trọc lốc, gầy gò, mặt rầu rầu trong tư thế chụp
chính diện hay chụp nghiêng… Do mối quan hệ tốt đẹp thế nào đó, Chính phủ Pháp
có thiện ý giao cho phía Việt Nam
300 hồ sơ tù nhân trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 của Sở Mật thám
Đông Dương tàng trữ ở Paris.
Danh sách có đăng báo Nghệ An. Cha tôi lãnh bản án 5 năm tù cấm cố với tội danh
“Trong hỏi cung khai là đảng viên đảng cộng sản Đông Dương, chi bộ Vầng Hồng”.
Thật dám làm dám chịu đúng tinh thần thượng võ của một con người trung trực.
Khai làm cộng sản thì tù mọt gông chứ chẳng chơi. Xót con, bà nội Hoàng Thị
Nguyên phải bán không biết bao nhiêu mậu ruộng chạy đôn chạy đáo mới lo lót cứu
hai anh em ra khỏi tù, thoát chết, sau 2 năm bị nhốt xà lim Vinh.
Sau
12 năm ngâm cứu, nhờ sự kiên trì
của cháu Thái Thị Hải Châu với
tất cả lòng yêu kính ông nội, ngày 18-2-2012, từ Thành phố Vinh, Ban Thường vụ
tỉnh ủy Nghệ An ra quyết định 1545- QĐ/TU
công nhận Đồng chí Thái Doãn Tiên (1904-1988) Nhà giáo, Bác sĩ Đông y
quê xã Yên Lăng, huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An (nay là xã Thịnh Sơn huyện Đô
Lương) là Đảng viên Đảng cộng sản Đông
Dương vào Đảng năm 1931, nguyên là cán bộ hoạt động cơ sở có thời gian hoạt
động cách mạng từ 1928 đến 1931. Gia đình đồng chí Thái Doãn Tiên được hưởng
chế độ đãi ngộ đối với bậc lão thành cách mạng trước 1-1-1945 kể từ ngày ký
quyết định. Kèm theo là 50 triệu đồng. Thay mặt Ban thường vụ, Phó bí thư
thường trực. Đã ký Trần Hồng Châu.
Bao
nhiêu biến thiên dâu bể cuộc đời. Cha ơi, cha không còn sống để thấy sự kiện
lớn ngày hôm nay. Cha được chiêu tuyết rồi ! Cha sống lại rồi ! Bao nhiêu tháng
năm dài dằng dặc cha ngậm oan để sống. Cha bị nghi ngờ, xét nét, hành tội bởi
những người lãnh đạo chính quyền. Họ vẫn giao việc như Chủ tịch làng Kim Liên
khi cướp xong chính quyền, Trưởng ban Bình dân học vụ xã Yên Hòa trong chiến
dịch diệt giặc dốt 1946-48…Bác sĩ đông y Thường trực trạm xá xã 27 năm… nhưng
họ không tin. Họ hành xử theo cương lĩnh Xô Viết Nghệ Tĩnh do Trần Phú thảo
“Trí, phú địa hào đào tận gốc xốc tận rễ..”, xem ông là phần tử trí thức xấu -
kẻ thù của giai cấp cần loại bỏ. Họ xử tệ với cha tôi bằng những hành vi thô
bạo nhắc lại thêm đau lòng. Các con của ông cấm không được học bất cứ một
trường đại học nào, không được vào đảng trong tiến trình chúng tôi cúc cung đi
theo cách mạng. Trong lý lịch đi học Đại học sau khi rời quân ngũ của tôi, hồ
sơ mật bí thư TD Ngữ bịa tạc ghi “ông bố tổ chức tập toàn phú hữu chống phá
cách mạng”. Việc vào đảng của mấy anh chị tôi mới bi đát hơn : anh Sửu 33 năm 5
làm đối tượng Đảng, Chị Thanh 35 năm đối tượng Đảng. Anh Hảo 25 năm đối tượng
Đảng. Chỉ có anh Sửu kiên trì nên thành công. Trời, thời đó mà có một đạo bùa
chú như thế này hôm nay thì chúng tôi
đâu đến nỗi long đong lên bờ xuống ruộng. Không phải riêng cha tôi mà cả 7 anh
chị em chúng tôi nữa đều là nạn nhân của các đồng chí của cha tôi! Cũng may, Xô
Viết Nghệ Tĩnh thất bại bị dìm trong bể máu, nếu nó thắng lợi thì còn đau biết
gấp mấy lần cho anh trí thức?
Cho
đến tận ngày mất, chưa bao giờ thấy cha tôi khoe với các con tao là “đảng viên
Cộng sản” như một vinh danh thời thượng. Hình như có uẩn khúc gì đấy, ông ém
nhẹm giấu tiệt điều này tài thế. Chỉ có chuyện này thì ông kể say sưa : ông bị
nhốt cùng một xan với cụ Hồ Tùng Mậu và Tôn Quang Phiệt. Mấy ông trí thức hay
chụm đầu vào nhau bàn bạc chuyện quốc sự. Bọn cai ngục thấy bất an bất lợi,
tách mỗi người ra một khám. Không được trò chuyện với nhau cũng buồn, cha tôi
nẩy ra sáng kiến khi đi tiêu, nhặt những tờ báo người ta chùi khu có tít chữ
lớn giữ lại. Khi muốn thông tin cho các cụ, chỉ cần kết nối các con chữ lại với
nhau trên một tấm bảng. Vì phát minh này mà các cụ bị bọn cai ngục đàn áp cho
ăn một trận mưa dùi cui. Cha tôi lõa máu đầu chạm đến não di hại đến cả cuộc
đời, về sau cứ hễ động trời cắn nước thì
đầu lại đau như búa bổ.
Giáo sư Hương trường, Bác sĩ Đông y
THÁI DOÃN TIÊN
(1904-1988)
Ra
tù cha tôi lại trở về với nghề gõ đầu trẻ, tuy có gián đoạn một thời gian tù
đày. Mặc dầu có tì vết nhưng bọn Pháp thực dân
vẫn tin dùng người. Ông tốt
nghiệp trường sư phạm Bảo hộ, ra trường năm 1926 với tấm bằng ghi rất
trang trọng “Giáo sư Hương trường”. Ông Giáo sư hương trường dạy học trò trường
làng khai tâm phóng học đến cấp một với đồng lương đủ cho cả nhà sống sung túc:
9 đồng/ 1 tháng lương khởi điểm (2đ 8/ 1 tạ gao), vải, đường, xà phòng, thịt
hộp… phát riêng. Ông ăn vận rất sang, mặc Tây, mặc Ta đủ cả, thích nhất là bộ
quần ba ba tơ tằm màu mỡ gà do mẹ tôi nuôi tằm dệt lụa làm lên. Chân ông dận
đôi dép cao su Sài Gòn trắng mỏng dính, đầu đội mũ phớt, tay cần cái ba tong và
đi trong tư thế ung dung đạo cốt. Những lúc cao hứng ông làm thơ hoặc đọc cho
chúng tôi nghe một đoạn văn của Bôđơle hay Veclen thật diệu nghệ, phát âm chuẩn
như Tây. Ngày nghỉ, ông thường lên Thị
trấn Đô Lương đi bát phố coi cảnh phố
phường buôn bán nhộn nhịp sầm uất, kết
thúc bằng một chầu phở xào giòn mà ông khoái khẩu, rồi lại thong dong bộ hành 4
kilômết về nhà. Bọn trẻ chúng tôi căn giờ đón ngoài cổng. Gặp ông là sà xuống
vây quanh, thọc tay vào áo bađơxuy lôi ra những thỏi bánh mì thơm thơm mùi lúa mạch, mùi lên men chua
chua. Mẹ tôi lườm lườm nhìn ông và lũ trẻ mắng yêu “Cao lâu thì cha xơi, đem về
cho con những cục cơm nguội nướng”. Theo định kỳ, ông được tăng lương lên 11
đồng, 15 đồng…Ông giáo Thiệu (tên chị Cả) mà
dân làng và học trò
kính cẩn gọi như thế đã sắm được xe đạp Steclinh ngang với ông nhà
giàu Phó Ky.
*
Vào
đầu năm 1953, xóm trên làng dưới bỗng truyền đi tin đồn: Một ông công an gộc,
nghe đâu là trưởng đồn công an huyện Con Cuông sẽ biệt phái về xã Yên Hoà để
đối mặt với một tên phản động gộc. Hắn về thật. Hắn là Học Mai,Thái Doãn Mai,
có học chút ít nên mới gọi là Học. Hắn về chiều thì hai giờ sáng đã đến viếng
ông chú họ. Lễ nghĩa quá ta ! Tên hung
thần này kéo theo một đám lâu la dăm bảy
đứa tay gươm, tay mác bặm trợn như lũ cướp. Học Mai vận một bộ quân phục ka ki
vàng choé thưả theo lối Amêricơn bê rê trễ trên đầu, súng pachoọc chễm chệ bên
hông, nòng dài quá đầu gối, giày săng đá với những hàng đinh dày lộp cộp nghiến
trên nền gạch. đến ghê. Hắn đập cửa rầm rầm, dựng cả nhà dậy. Mọi người nhà tôi
ngái ngủ tưởng trời sắp sập. Học Mai cất cái giọng khê lòm rin rít qua hai hàm
răng sít sịt đều đặn trắng nhởn như bắp ngô :
- Lệnh bắt người và khám nhà.
- Lệnh của ai !Vì tội gì ? - Mẹ tôi hỏi
- Lệnh của Công an. Tội làm phản động, làm
giặc.
- Chứng cớ đâu ?
- Chúng tao sẽ đập cho lòi cái chứng cứ ra !
- Công an không có quyền, chỉ có lệnh của Tòa
án mới có hiệu lực – anh Hợi vặc lại.
- Đừng lôi thôi lắm lời. Chính quyền - toà án -
công an chỉ là một. Lệnh ai chẳng được. Chúng bay ! khám nhà.
Sau
hai tiếng lục soát chẳng tìm được gì khả nghi, chúng tiu nghỉu bắt cha tôi và
anh Hợi đi để lại một bãi chiến trường ngổn ngang tủ, bàn ghế tanh bành, quần áo bươi chười, sách vở tài liệu rủ tằm
rủ rối. Mẹ tôi ngao ngán, thở dài. Các anh em tôi chết lặng đứng như trời
trồng.Cảnh cướp bóc ở nhà Vương Ông dưới chính thể mới đang tái diễn.
Tối
hôm đó, Học Mai hối thúc dân làng đến Hội quán làng mở cuộc đấu tố cha tôi. Hai
cha con bị bắt quỳ dưới đất, ngứa không dám gãi. Hắn tuyên bố :
-
Trước mắt bà con dân làng là một tên phản động gộc. Hãy tấn công không khoan
nhượng vào tên tội phạm, kẻ thù không đội trời chung của nhân dân. Theo tình
báo của ta, thằng thầy giáo Nguyễn Ngạn làm việc ở ban tu thư Bộ Giáo dục đứng
ra thành lập một chính phủ lâm thời phản động gọi là Cộng hòa Việt Nam. Danh sách
nội các chính phủ của y gồm 15 bộ trưởng. Cách đây nửa tháng tên Nguyễn Ngạn
giữ chức Thủ tướng ghé qua nhà Thái Doãn
Tiên giao cho tên này chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Giáo Thiệu ! Ông có nhận tội
không ?
Cha
tôi từ tốn:
- Có lẽ các ông nhầm với ai đó. Nguyễn Ngạn là
bà con đằng ngoại mẹ tôi ở Yên Thành. Cũng như Phan Đăng Diêu, ông ấy là
bạn học đồng khóa sư phạm ghé thăm xã
giao chứ tuyệt nhiên chẳng có chuyện tổ chức chính trị nào cả như các ông vu oan giá họa.
- Vu oan giá họa à ! - Học Mai rít lên - Nguyễn Ngạn hiện đã bị
bắt, đang nhốt trong lao. Để xem cái thành thực của ông đến mức nào, ông giáo
ạ. Sớm muộn rồi cũng cháy nhà ra mặt chuột. Ông ăn bơ thừa sữa cặn của đế quốc
nên ông lú lẫn chuyên đi ca ngợi văn minh thực dân.
Lời
ném qua câu quặng lại, gậy gộc đánh đập phũ phàng lên thân thể mảnh mai nhà nho
của cha tôi. Ông bị treo ngược lên xà nhà hội quán. Thương cha, anh Hợi dùng
vai đỡ cho cha khỏi mỏi, lấy thân làm chiến lũy thịt che chở cho cha mà không
kín được, ông vẫn phải ăn những ngọn đòn hiểm từ mấy tay côn đồ đánh rất có
nghề.
Khi
đưa ông về đến chỗ tạm giam thì thân thể cha tôi rũ ra như ngọn rau muống héo,
máu mê bết mặt, bết tóc, toàn thân bầm dập. Các anh chị tôi phải dùng
thuốc đông y xoa bóp khắp toàn thân để
tan máu bầm.
Đêm
thứ hai lại đến. Vẫn là trò nhục hình khốn nạn đó lặp đi lặp lại. Tiếng đánh
đập thình thịch, tiếng kêu thét dậy trời. Đau quá, cha tôi xin khai. Chúng cởi
trói hạ cha tôi xuống đất, thì vừa lúc ông ngất đi. Chúng lấy nước ruộng hắt
vào mặt. Một chốc ông tỉnh lại, ngơ ngác không nhớ ra chuyện gì đang xẩy ra với
mình.
Đêm
thứ ba. Ngón đòn hiểm cuối cùng chúng dở dói ra là dùng lưỡi cày nung đỏ, bắt
nghi phạm ngồi lên may ra nó khai. Chiều
ấy, mẹ tôi khẩn thiết nhờ lão bộc Bon cấp tốc ra Yên Thành mời cho bằng được
ông Nguyễn Ngạn lên cứu chủ.
Khi
quần ông Thiệu cháy khét rẹt, da thịt ông ở mông sắp chạm chiếc lưỡi cày đỏ lòm
thì một tiếng thét vang lên :
- Dừng tay! Ta là Nguyễn Ngạn đây. Các ông giết
người vô chứng cớ. Ông đòi nhân chứng thì ta đây là nhân chứng sống. Còn gắp
lửa bỏ tay người nữa không? Chúng tôi sẽ kiện các ông ra tòa về tội vu khống.
Học
Mai sai người xét giấy tờ, cứng họng, đuối lý, nhũn như con chi chi, len lét
như rắn mồng năm.
- Chúng tôi lầm. Xin lỗi. Xin lỗi !
Ngay
lập tức, Học Mai buộc phải trả lại tự do cho ông giáo Thiệu. Một vài tiếng chê
trách xì xầm trong đám đông “Cháu giết chú. Đồ dã thú”. Học Mai đốp cháp ngay
“Chú cháu thì rồi vẫn là chú cháu, nhưng nếu là kẻ thù giai cấp của nhân dân
thì tôi đây không tha”. Các anh chị tôi khiêng cái xác thoi thóp của cha về
nhà. Đau và mừng. Năm ấy cha tôi mới 49 tuổi qua ba ngày tra tấn nhục hình sọm
đi như ông già bảy mươi. Mẹ tôi phải khôi phục những vết bầm dập toàn thân động
đến nội thương lục phủ ngũ tạng mất ba tháng trời bằng một lứa tằm chín ngào với mật ong với khoảng dăm chục chén thuốc bắc..
*
Giữa
năm 1955. Cải cách Ruộng đất tràn qua quê
tôi như một cơn lốc xoáy làm làng xóm xơ
xác tiêu điều, con người sống trong tâm trạng nơm nớp hãi hùng, sợ Đội
như sợ cọp, không ai dám túm tụm chuyện trò sợ bị liên lụy. Chính quyền xã bị
vô hiệu hóa. Đội Cải cách xâu rễ bắt chuỗi với bần cố nông, đoàn kết với trung
nông lớp dưới, cô lập bọn phú nông, tiêu diệtgia cấp địa chủ, thành một thế lực
lớn mạnh nhất thao túng làng quê. Hoe Giao, tay bợm trạng xung đội du kích xã
vác thanh đại đao trên vai, áp giải ông chủ tịch xã Tùng. Ông bị hắn trói giật
cánh khỉ bằng một sợi dây thừng to tổ bố đi nghệu nghễn ngoài đường. Hắn vào
nhà Hoe Hoét, sợ ông bỏ trốn hắn trói nghiến ông Chủ tịchđáng kính vào gốc dâm
bụt như trói chó làm mặt ông biến sắc nhăn nhó, đứng cũng không được, ngồi cũng
không xong. Tôi đi ngang qua bắt gặp cặp mắt ông van lơn thấy mà thương. Ông
Chủ tịch lãnh đạo xã nhà từ sau cướp chính quyền đến giờ rất có uy tín với dân
làng bởi đức độ hiền hậu và tính mẫn cán trong công việc. Ông bị tội gì đây ?
Tội phản động !
Gia
đình cha tôi bị quy là địa chủ thường, sau khi đã trừ đi những tình tiết giảm
nhẹ vô cùng quan trọng là có người anh
thứ 3 Thái Doãn Hợi quân cách mạng, vừa mới tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ
lẫy lừng. Ông bị quy kết ba tội : 1-Trí thức (biết tiếng Pháp đích thị là tay
sai gián điệp của bọn thực dân Pháp; biết chữ Nho đích thị là tay chân cho bọn
phong kiến), 2- Phú: Gia đình máu mặt có 7 gian nhà ngói, ao dưới vườn
trên; 3- Địa: có những 2 mẫu 3 ruộng tự cày cấy. Vẫn là theo chuẩn của cương
lĩnh Tổng bí thư Trần Phú vạch. Thoạt đầu cha tôi thoát án tử, rồi hạ xuống 20
năm tù giam cũng thoát nốt. Ông anh ở chiến trường đã đỡ thay cho bố thoát khỏi
tử hình và tù tội, lợi hại thật. Nếu thế thì rất tiếc không động viên anh Sửu
(chưa đủ tuổi) ra lính luôn - mẹ tôi tiếc rẻ - không chừng nhà ta chẳng bị
thành phần cũng nên !
Ngày
tịch biên gia sản đến. Một lũ khố rách áo tải 13 gã đàn ông 3 mụ đàn bà chân
đất đầu trần sát khí đằng đằng, quần nâu áo cộc, tay thước tay dao xông vào nhà
như chốn không người. Cha mẹ tôi bị du kích cầm gươm khống chế ngay. Họ đọc
quyết định trưng mua 2/3 gia sản, đuổi cả gia đình tôi xuống mấy gian nhà ngang
lợp tranh tá túc. Họ lục lạo, xô cái tủ đẩy cái ghế kêu rít lên. Ảnh chân dung
của cha tôi bị giật xuống, gạch chéo mặt, vứt xuống sàn xéo lên cho hả. Tôi
muốn thét lên, nhảy xổ vào thằng người thú cấu xé, nhưng sợ lưỡi gươm lăm lăm,
lại thôi. Rút kinh nghiệm Cải cách ở Hà Tĩnh trước đó một năm, mẹ tôi là người
đàn bà đảm lược, quyết không để của cải mồ hôi nước mắt của mình tạo nên lọt
vào tay bọn nhác làm siêng ăn đã sơ tán triệt để những thứ quý giá cho bà con họ hàng tâm phúc giữ. Cái
nào cồng kềnh quá thì thôi hoặc bán tống bán tháo.Thành thử khi Ban thu mua vào
nhà thực thi công vụ thì chỉ còn cái xác
nhà trống. Chúng bực tức hậm hực, truy cứu vàng giấu chỗ nào ? Tôi 12
tuổi và em Tâm 7 tuổi bị tách ra hai nơi để khảo vàng. “Thằng anh mày khai rồi,
mày không khai tao cho một nhát gươm bây giờ.” Tâm một mực “Tui không biết”.
Tôi bị một con mụ lải nhải tra khảo hoài, bực mình tôi chỉ tay lên ngọn dừa bên
ao. Một thằng đầu trọc nhanh nhảu trèo lên lục lạo khắp nơi, bỗng nó la ré lên
như phải bỏng, vội vàng tụt xuống gốc cây, mặt và người đầy kiến lửa. Nó chạy
lại cho tôi một thoi như trời giáng vào mặt “Mày chơi khăm ông à?”.
Khi
vào kho khám xét, người ta không tìm thấy gì, chỉ có đôi bồ con năm 1953, anh
Hợi đi dân công Thượng Lào đem về. Trong bồ có gì ? Một mớ khoai dong chuột gặm
nham nhở. Nhìn sang bên có một cái sàng đựng mớ rau má khô còng queo. Ông Đội
ái ngại nhìn cốt cán Hoan “Thật tao không thể tưởng tượng nổi, cả gia đình 7
miệng ăn mà không có lấy một hạt gạo !?
Không hiểu chúng nó sống bằng gì ?”
Đến
non trưa thì cuộc khám xét trưng mua và biên bản đã hoàn tất. Cái gì tốt họ mua
như 7 gian nhà lim cổ, dong, gường mođen, sập, tủ gụ, còn cái gì cũ nát không
dùng được thì tống xuống nhà ngang phần gia đình bọn tôi. Họ niêm phong nhà,
giao một biên bản trưng mua cho cha tôi. Mua nhưng không có giá tiền, không hẹn
bao giờ trả tiền. Vĩnh viễn không có tiền trả ?
Khi
bọn đầu trâu mặt ngựa đi khỏi, tôi dùng nước thấm vào băng niêm phong mở cửa
vào nhặt bức hình chân dung cha tôi. Tôi ôm vào ngực, lòng dào lên nức nở. Đứng trước phòng ngủ đêm qua của cả nhà ấm
cúng là thế nay thuộc kẻ khác rồi mà cám cảnh trời đất. Về sau, tôi đã bảo vệ
bức hình cha tôi cẩn thận, dùng kỹ thuật hiện đại phục chế nó hoàn hảo hôm nay
mới có đăng kèm theo bài này như bạn đọc thấy đấy. Đó là bức hình cha tôi chụp
trước lúc người đầu đội vòng nguyệt quế ung dung đi vào bóng tối của nhà tù đế
quốc 1931.
Cha
tôi chỉ bị đưa ra Hội quán chòm đấu tố nhiếc móc một đêm. Vì chẳng có tội gì cả
ngoài việc dạy chữ mở mang tâm trí bọn trẻ, ông tiệt không gây ra một ân oán cá
nhân nào. Ông hiền có tiếng, đi đường hễ gặp đàn kiến hành quân qua, ông xuống
xe nhấc hai bánh để không cán lên chúng. Bà con thương tình chỉ lườm nguýt qua
quýt cho xong chuyện. Riêng ba gia đình lão bộc Duận, Nhã, Bon gia nhân của cố
cụ Tuần tôi đều lên kể nhân đức Cố tiếp đến chuyện cha tôi đã
chăm sóc họ tử tế như thế nào từ chuyện cất nhà, dựng vợ gả chồng cho
con cái họ… làm ông Đội cạu mặt đuổi huầy huậy xuống đài đấu.
Từng
ấy cũng đủ hạ uy thế cha tôi, đường đường là một ông giáo đạo cao đức trọng.
Ông co vào nội tâm sống âm thầm như chiếc bóng. Buồn nhất là khi đấu tố ở xã,
cha mẹ tôi và chị Thanh lớn tuổi bị nhốt vào chuồng như nhốt thú dành riêng cho địa chủ. Ông thấy nhục, cúi gằm mặt
xuống đầu gối. Thỉnh thoảng một gã oắt du kích vác thanh kiếm cùn đi tuần qua
thét “ngẩng mặt lên, thằng kia”. Cha tôi ngửng mặt lên bắt gặp ánh mắt của
thằng học trò, mắt hắn cụp lại lảng sang chỗ khác. Chiều ấy, tôi đi đào rau má
ở Bạch Ngọc cách nhà 15 cây số, được một gánh đầy nhóc, ra sông Lam chỗ đền
Miệu nơi có cây búp quả linh thiêng xổ sạch bùn đất, cùng O Niêm con chú Trị
gánh về.Tôi bỏ vào kho, ra lu tọc một gáo nước lã, rồi nhảy chân sáo xuống Đồng
Lạc coi đấu địa chủ. Tôi dè dặt đi lại chuồng nhốt cha mẹ và chị tôi. Cha me và
chị ngước nhìn tôi mừng rỡ. Tôi khoe với người là đào được một gánh rau má tươi
non.”Ôi con tôi giỏi quá” - mẹ khen. Tôi mon men lại gần khu trung tâm đấu tố.
Một tấm phông màu cháo lòng như cánh buồm
no gió trên can quốc kỳ và ảnh bốn lãnh tụ hai Tây hai ta: Mã khắc Tư
(Mác) - Tư Đại Lâm (Stalin) - Hồ Chí Minh – Mao Trạch Đông. Trên bàn chủ
tịch đoàn kê cao hơn đầu người gồm có Chắt Hoan cốt cán là chánh án, ông Đội
mặc y phục quân nhân bạc màu trong vai cố vấn, ả đĩ Thắm, hai gã trai cày không
rõ tên chuyên cày thuê cuốc mướn, không biết chữ làm bồi thẩm đoàn. Người ta
lôi ra trước vành móng ngựa ông Phan Tư Giản một địa chủ biết làm ăn nhất ở Hội
Tâm. Một ả nông dân chân đất mặt như Thị
Nở chạy choi choi lên, nắm chặt tay dúi lia lịa vào đầu kẻ thù của mình. Ả kể
lể “Mày bắt tao làm lụng suốt ngày đêm không cho nghỉ ngơi, ăn thì toàn đồ thừa
vợ chống mày thải ra. Ngày nọ mày đè sấn tao bên bụi khoai môn mày hiếp tao.
Như thế này ! Thế này ! Cái thằng bạo
dâm chết dẫm”. Ông Tư Giản ngẩng cao đầu hắt ra một câu “Cái thứ đĩ rạc ma chê
quỷ hờn như mày nằm ngửa giữa đường chó nó cũng không thèm đ. chứ là tao”. “Đả
đảo địa chủ ngoan cố” - tiếng hô đả đảo dậy trời từ một rừng cánh tay vung lên
căm giận ngút trời…
Đấu
một chặp nữa, đến trưa, tội trạng bóc lột nông dân đến tận xương tủy đã phơi
bày rõ ràng. Toà nhân danh công lý của
nông dân tuyên ông Giản 15 năm, phạt 5
năm về tội ngoan cố không chịu khuất
phục nông dân. Tổng cộng hình phạt lên đến 20 năm tù giam..
*
Buổi
sáng ấy, chúng tôi đang ngồi học trong lớp nơi sơ tán nhà ông Cẩn thì nghe
những phát súng trường chát chúa nổ rất đanh, gần lắm.Thầy Thạc Tân cho lớp
nghỉ giải lao, chúng tôi chạy ùa ra phóng xuống cánh đồng xem bắn địa chủ. Đến
nơi, thấy một xác người nằm còng queo dưới huyệt hai tay vẫn bị trói dật vào
cây cột tre, máu sủi bọt từ những vết thương bị đạn phá ra to bằng cái dĩa. Một
du kích dùng kiếm chặt đứt những nuôộc trói, kéo tóc bật ngửa mặt người chết
lên. Trời, thì ra là Thái Doãn Thi – bác họ
của tôi. Một người nông dân hiền lành cơ chỉ biết cách làm ăn, ông chết
vì tội gì vậy ? Mãi sao này tôi mới biết “tội” của ông là: năm 1953, chính trị
viên tiểu đoàn Thái Doãn Mậu chỉ huy đánh chùa Non Nước Ninh Bình. Trên đường
khải hoàn đi qua cánh đồng Pháp câu moócchiê ông bị trúng đạn tử thương tại
chỗ. Thương em trai, ông Thi len lỏi từ
vùng tự do khu Bốn vào vùng địch hậu tìm hài cốt của em. Cuộc đi không thành.
Đến Cải cách ông Thi bị khép vào tội tử “nhảy vào vùng tề ngụy, cấu kết với bọn
công giáo Phát Diệm chống phá cách mạng”. Trước đó, trong giảm tô ông anh Cả
của ông Thi là Thái Doãn Yết cũng bị bắn đợt đầu. Ông Yết là người sáng lập ra
chi bộ Đảng đầu tiên của xã Yên Hòa (thời đó gồm 3 xã Thịnh Sơn, Hòa Sơn và Bài
Sơn), huyện Anh Sơn (nay là huyện Đô Lương), và nhận lãnh chức vụ bí thư. Theo
chỉ thị của bí thư đảng Vầng Hồng nhà doanh nghiệp đồ gỗ là ông Cửu Thiện, Thái
Doãn Yết được biệt phái sang hoạt động hai mang bên địch với vai bang tá. Lịch
sử Đảng bộ xã Thịnh Sơn viết “Khiếp nhược trước uy vũ của thực dân Pháp, Thái
Doãn Yết đầu hàng giặc làm tay sai cho chúng chống phá lại cách mạng”. Đến Giảm
Tô, ông lãnh án tử hình vì tội “phản bội” đó. Rất tiếc nhân chứng sống duy nhất
là bí thư Cửu Thiện bị xử lý trước đó.
Một
nhà ba anh em tham gia cộng sản, ba đảng viên, cả ba đều chết vì tay cộng sản.
Cho đến nay Đảng bộ xã Thịnh Sơn vẫn
ngủ yên trên sai lầm tai quái này !
*
Sáng
nay anh em chúng tôi lại vào rừng như thường lệ. Hôm nay có cha đi theo để kiếm
cái mỏ cối đạp mà cả tháng nay ông lục cục đục đẽo chưa xong. 5 giờ sáng. Đêm
còn tối bưng. Chúng tôi quen rồi với cảnh âm phủ suốt hơn năm sống nhờ rừng,
nên bước đi vững chãi. Cha tôi không quen bóng tối chân nam đá chân chiêu trông
đến tội. Đường theo lối sỏi thân quen lượn lờ quanh đồi núi. Được nắng hương cỏ
mật hai bên vệ đường dâng lên ngào ngạt, đầy cả hai buồng phổi. Khí rời mát mẻ,
se se gió lạnh. Xa xa, đôi chim từ quy khắc khoải gọi tàn canh. Phương Đông màu
trắng ửng dần sang hồng. Bọn tiều phu chúng tôi đi trong bình minh rực lửa và
râm ran tiếng gà. Đây là làng Yên Bài, nối tiếp dãy lèn Yên Mỹ với Mỏ Diều hùng
vĩ, vượt qua quãng đồng Tiên Cảnh có ngôi mả ông ăn mày to như trái núi con bởi
ông ta chết vào giờ thiêng, đây rồi Khe Nước Nhỉ - nơi chúng tôi thường nghỉ ăn
trưa, uống nước, tiếp đến làng Hậu Trạch lơ thơ dăm mái lá hiền hoà. Đi một đỗi
ruộng bậc thang nữa thì đến bìa rừng. Cha theo kịp nhưng khá vất vả, thở dốc ra
khó nhọc. Kia rồi, một súc gỗ dẻ nằm lẫn trong đám lá dẻ khô queo. Anh Hảo gạt
mấy cành nhánh, lộ ra gốc cây ngon lành. Anh Hảo nói “Cha chặt cây này khoảng
độ 1m 2, rồi ra điếm canh nghỉ ngơi ăn cơm, xong vác về trước. Các con còn đi
sâu vào rừng mới chặt được củi” . Nói rồi, anh em chúng tôi xăm xăm đi. Rừng
bỗng trở nên yên ắng tịch mịch. Có tiếng gọi với theo “Các con ơi, sao nỡ bỏ
cha giữa rừng già thế này”. Tôi chạy quay trở lại. Ông sợ run bắn lên. Tôi trấn
an ông “rừng ở đây hiền hòa không có thú dữ đâu cha”. Ông hơi yên dạ vung rựa
lên đẵn vào cây thiết mộc.Tiếng cum cum vọng lên từ thung lũng như khắc vào hồn
tôi như chạm vào hồn rừng từng nhát từng nhát khắc khoải nhói đau. Tiếng cum
cum yếu dần, thưa dần rồi im bặt. Tôi đâm hoảng sợ có gì bất trắc, định chạy ra
thì anh Hảo xua tay “không việc gì đâu, lo làm khẩn trương lên tránh cơn giông
kia kìa”. Đến trưa mặt trời lấp lửng trên đỉnh rừng anh em gánh củi ra thì thấy
khúc gỗ dẻ đã đem đi rồi, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Tháng trước, dượng Thung
cũng vào rừng này chặt gỗ dẻ về làm cối xay, bị cây thoi từ trên xuống gãy đầu
gối, máu xối lênh láng, không ai cứu kịp đã tử vong.
Rừng
Hậu Trạch là ân nhân của chúng tôi, cứu cả vài chục gia đình địa chủ thoát chết
đói, vốn bà con họ hàng dây rau rễ má liên kết
đùm bọc lại cùng nhau để sống. Rừng cho chúng tôi củi, lá dong, hạt
muồng, củ nâu, hạt dẻ, lá lốt, lá trầu rừng, chạc chìu, cánh kiến, sa nhân, mật
ong, thú rừng… mùa nào thức ấy, bất cứ cái gì cũng đổi được ra gạo, khoai, ngô.
Con cháu địa chủ đông đến mấy trăm người, cứ bảnh mắt là lùa vào rừng, gánh củi
luôn ra chợ Tràng, chợ Lường, chợ Xóm Giếng bán, mua thực phẩm, tối mịt mới về
nhà, đi không ai thấy về không thấy ai. Rừng Hậu Trạch là thế giới riêng là
công quốc tự do không có hung thần Đội Cải cách của những người bị nạn. 12
tuổi, tôi đã sống hòa vào người thân cảnh đời của Thạch Sanh hàng năm trời
“Rong rêu mọc, nước suối tuôn - Đỡ lòng ngồi ngắm giang sơn chuyển vần”.
Các
bạn tiều phu bất đắc dĩ của tôi ơi, sau này dẫu đi bốn phương trời: Mỹ, Anh, Pháp, Canađa,
Úc…các bạn còn nhớ chiến khu nơi cưu mang nuôi sống chúng ta không những năm tháng
gieo neo vận hạn kiếp người ? Còn tôi, tôi luôn đau đáu nhớ về những cánh rừng
Hậu Trạch, hễ nhắc đến là chực trào nước mắt.
*
Cha
tôi có người chú út là ông Thái Doãn Châu. Ông Châu làm nghề dạy học kiêm thầy
lang thuốc Bắc. Ông giáo Châu người quắc
thước có ánh mắt nhìn dữ, tiếng nói
oang oanh quát tháo như lệnh vỡ. Chỉ có mẹ tôi là chế ngự được ông. Ngày giỗ Cố
cụ Tuần, ông bao giờ cũng đến muộn, ngồi độc một mâm trên cao chửi mắng con
cháu hết điều khi rượu vô. Cải cách đến ông lâm vào cảnh đói, bốc thuốc không
có khách. Ông thường ngồi thừ một xó vuốt bộ râu rậm rì, nghĩ ngợi kế sinh
nhai. Quẫn quá, một lần dân làng thấy ông đang ngồi xóc chiếc điếu cày sau cái
giếng đất cuối làng. Người ta báo với đội Cải Cách. Đội sai dân quân du kích gô
cổ ông. Tội danh đánh thuốc độc vào
giếng đầu độc dân làng, buộc ông lãnh 20 năm tù. Tưởng vào tù có cơm ăn, ai ngờ
chỉ sau hai tháng ông bỏ mình trong trại tù Bến Hới.
Ông
để lại cho cha tôi tủ sách thuốc hàng trăm quyển. Cảm thương cái chết oan uổng
của chú ruột, lại không có việc gì làm, ông cắn răng bấm bụng đói meo đọc sách
thuốc quyết nối nghiệp thay chú cứu nhân độ thế. Thoạt đầu ông chữa những bệnh
đơn giản cho những người thân trong nhà. Thấy được, ông dấn lên đọc tài liệu,
luyện nghề cho tinh thông. Tiếng lành đồn xa, người ta tìm đến ông như tìm đến
một cứu nhân. Ông nổi tiếng thầy lang mát tay, giỏi nhất là chữa bệnh nhi khoa
và phụ khoa. Ông bắt mạch kê toa không lấy tiền. Thương ông, bà con đem biếu
thầy mớ khoai, củ sắn, bò gạo để ông giáo đắp đổi qua ngày. Sau này, khi đã có
thương hiệu, ông vẫn chứng nào tật ấy, không lấy tiền của bà con, hoặc nếu có
lấy thì lấy chút ít cho có lễ để ông bà đủ sống và bù trì cho người nghèo hơn.
Một lần tôi thấy một bệnh nhân nam rách rưới, da mặt ưởi, bủng beo đến xin ông
chạy chữa. Cha tôi khám kỹ, rồi cho đơn. Ông viết bằng chữ Hán đẹp như vẽ. Cầm
đơn thuốc trong tay, người bệnh tần ngần. Hiểu ý, ông mở túi cho hai hào tiền
thuốc. Bệnh nhân cảm ơn rối rít. Ra về đến ngoài ngõ, ông gọi giật lại, nói “bà
ơi cho cháu này xin 2 bò gạo”. ông bảo tôi “Uống thuốc mà không có gì ăn thì
làm sao khỏi bệnh”. Tôi đã vỡ nhẽ ra tất cả. Trong nhà cha tôi chỉ tôn thờ một
câu châm ngôn của Danh sư Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác “Nhân nghiã trân tàng bất hoán phương” [Cái nhân nghĩa là của quý
giá nhất phải biết bảo tồn không bao giờ thay phương đổi hướng]. Trong ngôi nhà
tranh vách đất chỉ có câu
Bức họa châm “nhân nghĩa trân tàng..”
hiện treo tại thư viện Thái Doãn Hiểu
kim
chỉ nam ấy là sáng rực lên một vùng bởi nét chữ bay bướm như rồng múa phượng
chầu. Sau ngày ông mất, tôi giữ gìn bức châm ấy như giữ linh hồn của ngôi nhà,
dù tôi ở quê hay ở nhà riêng Sài Gòn. Tôi thích nó và quyết tâm sống theo lễ
nghĩa đó.
Cha
tôi là người hiếu học. Sự hiếu học xuất phát từ tinh thần trách nhiệm với người
bệnh. Ông học theo lối kiến văn là chính cộng với rút kinh nghiệm từ các ca
bệnh nhưng không quên chính danh về mặt bằng cấp. Ông đi thi để lấy bằng sơ cấp
ở huyện, thi lấy bằng trung cấp ở tỉnh hội Đông y. 70 tuổi ông còn lóc cóc ra
tận Hà Nội đến TW Hội Đông y thi lấy
bằng Bác sĩ đông y (đại phu). Việc này diễn ra đúng 10 năm !
*
Tôi
đi làm thầy giáo vào năm 1960. Chính
thức đứng trên bục giảng năm chưa đến 17 tuổi. Cha tôi lo lắm “Không biết nó
làm ăn ra sao. Dù gì thì nó vẫn còn là đứa trẻ” – Cha tôi nói với mẹ - “đêm ngủ phải có cha, không rời nửa bước”.
Nói rồi, ông đi lên trường cấp 2 Cao Sơn, Anh Sơn nhiệm sở của tôi. Ông lân la
hỏi mấy vị đồng nghiệp đồng môn về sự dạy dỗ của tôi. Anh Bính thưa: “Bác đừng
lo, tuy trẻ người nhưng anh ấy già tay nghề lắm. Học trò ở đây lống con, có em
đã từng đi bộ đội tham gia chiến dịch Tây Bắc, giải phóng Điện Biên về học. Họ
lớn hơn thầy giáo cả chục tuổi nhưng vẫn thấp hơn thầy giáo cái đầu. Họ dày dạn
bom đạn nhưng lại nơm nớp sợ thầy Hiểu nổi trống truy bài”. Ông xin thầy hiệu
trưởng dự giờ dạy của tôi rồi mới yên tâm quay về nhà. Hai năm sau, tôi thuyên
chuyển lên Dừa, trường cấp 2 Hùng Sơn, cha tôi nhớ con lại lên thăm. Đường xa
38 km, ông thường cuốc bộ, ít khi mua được vé xe khách quốc doanh. Có lần ông
lên và tôi về. Hai cha con gặp nhau ở lèn Kim Nhan. Dáng ông phăm phăm sải dài
trên con đường vắng, nắng chiều dát vàng lên đỉnh núi Kim Nhan rực rỡ. Hai cha
con ngồi nghỉ dưới khoảng rừng thưa, bạch đàn lao rao nắng, tiếng chim cu gù
đầm ấm gần xa, sông Lam như một giải lụa mềm mại vắt qua núi non xanh biếc.
Sau
này, 1976 vợ chống chúng tôi chuyển cư từ Hải Phòng vào Sài Gòn định cư, dạy
trường Cao đẳng Sư phạm Tp Hồ Chí Minh, ông lại vào thăm. Bữa đó, tôi giảng bài Thu vịnh của Nguyễn Khuyến cho 12 lớp văn khóa 2 trên giảng đường
lớn. Không hiểu làm sao ông biết được và xin dự giờ. Anh Hoàng Xuân Tâm đành
phải tháp tùng hướng dẫn ông. Tôi thì trổ hết tài nghệ để chứng minh tính ưu
việt của học thuật phái đỏ, và để cha tôi biết sự trưởng thành của tôi. Dạy
xong, về văn phòng ông nói ngay “Cũng được, nhưng vẫn khai thác chưa hết ý. Bức
tranh tâm cảnh thì phải đánh từ trong ra chứ không phải ngoài vào”. Tôi tiếp
thu và về sau hoàn chỉnh nội dung và nghệ thuật bài giảng tốt hơn.
*
Vào
thập niên 70 của thế kỷ trước, Mỹ dùng không quân leo thang đánh ra cả nước. Cả
nước dốc người đi đánh Mỹ. Nông thôn miền Bắc rỗng người, chỉ có một
sư đoàn bảo vệ , còn lại người già trẻ
em, phụ nữ tay cày tay súng đảm việc nhà, nuôi con chờ chồng đến ngày
chiến thắng. Không một làng quê nào yên bình được với bom đạn. Làng tôi nằm
trên trục giao thông đường 7. Ngày, triền miên không lúc nào chúng ngớt đánh
phá. Đêm, pháo sáng từng đợt từng đợt đốt lựng, lũ ó lùng sục săn ô tô. Làng
tôi bị đánh không biết bao bận, nhưng kỳ lạ không ai nỡ rời làng. Ai cũng bám
chặt lấy làng như một lẽ sống. Lần bị bom chụp nặng nhất là năm 1973 cả làng bị tan hoang nát bấy,
người chết, gia súc chết ngổn ngang, mọi người
mới chịu dời làng lên núi.
Quê
mới có gì ? Có núi và rừng. Rừng núi cho cha tôi cả một kho dược liệu quý không
phải mua. Nguồn thuốc Bắc từ Trung Quốc sang bị giao thông chặn tứ phía. Sau
này, chiến tranh biên giới Trung Việt xẩy ra 1979, nguồn thuốc bị cắt hẳn cha
tôi cũng không hề lúng túng. Tuệ Tĩnh theo lệnh vua Lê Thái Tổ đi cống Minh rồi
bỏ lại thân xác ở quê người, nhưng vị Thánh Y này đã để lại cho cha tôi một bửu
bối “Người Nam
dùng thuốc Nam”.
Cha tôi đã triệt để khai thác nguyên lý chữa bệnh này và đã thành công. Trong
dược điển của cha tôi có hàng trăm dược liệu quý giá. Ông có thể chữa được hàng
chục thứ bệnh nan y mà Tây y bó tay. Cha tôi huy động bà con vào núi hái thuốc
đem về phơi đầy sân đầy vườn trạm y xá xã. Bà con chữa bệnh không tốn bao lăm
tiền
Những
năm chiến tranh gian nan đó, gia đình tôi chia xẻ ra ly tán mỗi người một
phương. Anh Hợi ở Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hòa Bình. Anh Sửu làm việc ở phòng
phổ thông Ty Giáo dục Phú Thọ. Anh Hảo dạy học ở Thanh Hóa đầu quân đi Thanh
niên Xung phong chống Mỹ, cứu nước tổng đôi TNXP Thanh Hóa. Tôi – Thái Doãn
Hiểu gia nhậpTNXP Nghệ An. Chị Thanh làm Thư ký Công đoàn Nông trường Quân đội
1-5 Nghĩa Đàn. Út Tâm đi dân công tải đạn chứa vào hang động Phong Nha Quảng
Bình. Chúng tôi toàn sống ở những trọng điểm đánh phá quyết liệt của máy bay Mỹ
: Cầu Hàm Rồng, Cầu Cấm, Truông Bồn…, suýt chết không biết bao lần. Cha mẹ tôi
sống ở hậu phương, ngày nào cũng cầu nguyện cho các con đi chân cứng đá mềm. Mẹ
còn phải giữ đám trẻ để phụ thêm công điểm hợp tác xã kiếm thêm chục cân thóc mỗi
tháng phụ vào đồng lương ít ỏi của cha 30 đ/ tháng.. Già rồi mà các cụ cơm
không được no, khoai ngô sắn độn cơm. Cả nước sống như thế cả.
*
Năm
1973. Lần ấy tôi từ Dừa ghé thăm nhà. Hai cha con chuyện trò đến tận khuya. 12
h hơn, bỗng có tiếng gõ cửa. Tôi ra mở. Một bộ mặt gớm giếc thò vào : cu Minh ở
sau nhà. Tên sát nhân đã từng đeo mặt nạ bắn bác Thái Doãn Yết đây mà.
- Có việc gì khuya khoắt thế này.
- Thưa ông, ông cứu con con với. Đã mấy ngày
nay nó bí đái không tiểu được. Con đã làm đủ mọi cách.
Tôi
đưa mắt nhìn cha tôi dò hỏi. Ông ngồi bật dậy với túi đồ nghề khoác vào tay:
-
Nào ta đi.
Đề
phòng bất trắc tôi vớ chiếc đèn pin soi đường đi theo hộ tống người. Đến nơi,
một thằng bé mặt xanh nanh vàng nằm thở khò khè trên chiếc chõng tre. Cha tôi
vạch áo khám cho nó, nấn khắp bụng, đến dương vật. Một hồi lâu ông hỏi cu Minh:
-
Nhà có bồ kết không ?
-
Dạ có nhiều ạ.
-
Lấy ba quả nướng lên hòa với nước sôi để nguôi cho uống cách nhau 2 tiếng một
lần. Ba lần thì khỏi bệnh. Xong rồi !
Ông
khoát tay tôi ra về.
Sáng
hôm sau, cu Minh sang nhà quỳ mọp xuống trước mặt ông Phật sống lạy như tế sao:
- Ông ơi, sao ông nhân từ thế. Một đời con chỉ
làm ác cho ông và gia đình ông. Sao ông lại cứu chúng con ?
Cha
tôi điềm đạm vuốt râu:
-
Cứu người là việc của thầy thuốc. Giết người là nghề của đồ tể, là lý tưởng
người ta dạy anh. Nếu anh thấy đúng thì cứ giết. còn nhược bằng anh thấy giết
người là tội ác dã man thì thôi ngay. Anh nên nhớ nhà Phật dạy: Ác giả ác báo.
Gieo gì gặt nấy.
Cu
Minh ửng đỏ mặt như đã thấm. Vẫn trong tư thế quỳ :
-
Con cảm tạ ông đã cứu con con và cứu vớt linh hồn con. Amen !
*
Bạn
đọc. Bạn sẽ hỏi Thái Doãn Hiểu viết văn đã thành danh, có chịu ảnh hưởng gì ở
cha mẹ của mình không ? Ảnh hưởng nhiều lắm chứ. Trên tạp chí Sông Hương cách
đây vài chục năm tôi đã trả lời phóng viên Dương Quang Minh -Vụ phó vụ Thông
tấn báo chí Văn phòng chính phủ rằng:
“Còn
một lý do rất đỗi quan trọng nữa tôi viết sách là để trả nghĩa cho hương hồn
Phụ Mậu tôi. Cha tôi là một nhà nho thanh bạch, đi dạy người và làm thầy thuốc
đông y cứu nhân độ thế. Cha mẹ tôi không để lại cho tôi một cây chỉ nào cả,
nhưng người đã để lại cho tôi một tài sản tinh thần vô giá. Cha tôi sống rất hiền
đức, là đồ đệ của Lão Tử, Thích Ca, ông chủ trương không chống lại đều ác bằng
bạo lực. Cha tôi là một nhà giáo mô phạm từ chữ viết, lời nói, quần áo, tư
tưởng, tác phong, một thầy thuốc có y đức lớn xứng đáng là đồ đệ của Hải Thượng
Lãn Ông và Tuệ Tĩnh. Còn mẹ tôi - người là biểu trưng cho người phụ nữ Việt Nam
hay lam hay làm, hệt như bà Nguyễn Khuyến. Mẹ làm lụng quần quật từ bảnh mắt
cho đến tận khuya, quần áo lúc nào cũng ướt sũng mồ hôi. Tôi thừa hưởng những
nết tốt đó. Có thể nói: tôi viết sách dưới ánh sáng đức nhân của cha, miệt mài
thức khuya dậy sớm bằng cái cần mẫn của mẹ. Không thừa nhận có ngày chủ nhật và
ngày lễ, tôi làm việc đều đặn không dưới 14 tiếng mỗi ngày, chỉ nghỉ ngơi bằng
cách thay đổi hình thức công việc. Tôi viết với tất cả nỗi đam mê vốn có, và cả
sự cưỡng bức lao động chính mình”.
Lần
nọ, 1987 từ Sài Gòn về thăm nhà, cha tôi
bảo “Cha yếu lắm. Nghỉ hưu, chẳng có việc gì làm, lại không có lương hưu. Ăn
rồi lại ngủ, chẳng biết đi đâu, chơi với ai nơi khỉ ho cò gáy này. Thôi để cha
về với ông bà Tổ tiên. Đa thọ đa nhục”. Tôi động viên ông , “cha thường làm thơ
Thọ trường trăm tuổi danh thơm sẽ về. Danh của cha đã thơm rồi, nhưng cây cao
bóng cả vẫn là nơi các con được nương nhờ”.
Tôi lại hỏi cha “Nếu phải từ biệt thế giới đầy khổ nạn này, cha thương
tiếc nhất cái gì ? “Không tiếc gì cả, những thứ cha mong đã có hết, cha chỉ
thương 7 đứa con yêu quý của cha. Chị Cả Thiệu
đẹp người tốt nết, hiền hậu. Chị Thanh đảm đang chạy chợ ngược xuôi cứu
cả gia đình khỏi chết đói qua ba cơn hiểm họa. Hy sinh lớn, vì thế, chị con đâm
ra công thần thao túng mọi việc trong nhà. Thật tội nghiệp và bất hạnh sống
không chồng con. Anh Hợi có cái chín chắn đức độ của một người từng trải trận
mạc và nhân tình thế thái. Anh sẽ là
người con trai duy nhất ở bên cạnh cha cho đến phút cha lâm chung. Anh
Sửu hào hoa phong nhã, nói năng lợi khẩu bặt thiệp, ước gì được nấy, muốn là
ông Đốc khi ba tuổi về sau làm Đốc học suốt đời. Anh sống hơi vị kỷ, thời trẻ có ý oán hận đã trót thác sinh vào
gia đình ta làm cản đường tiến chính trị của mình. Anh Hảo kiến văn hạn hẹp,
nhìn đời, nhìn người, nhìn sự việc rối. Hay nói, nói nhiều, nên lầm lẫn; được
cái tính tình vui vẻ, ruột để ngoài da, hay trạng, luôn giữ trong mình một đứa
trẻ con cho đến già. Còn con - Thái Doãn
Hiểu tài hoa, chịu học, sống vị tha, con sẽ làm nên nghiệp văn lớn, hậu vận con
cháu tốt tươi. Cha kỳ vọng ở con. Có điều cầm bút phải lo là tai nạn nghề
nghiệp “Thủ thân vi đại” [giữ mình là việc lớn]. Con thấy đó, trên tấm hoành
phi đặt ở nhà thờ, Tổ tiên ta chỉ để lại ba chữ “Di dĩ an” [lấy cái bình yên để
lại cho con cháu]. Còn út Tâm, đứa con út da trắng tóc vàng cùng chồng là thuyền trưởng viễn dương Vương
Đình Đỉnh lúc nào cũng chỉ lo đói nên tằn tiện tích cốc phòng cơ đến là… khu
đỉn. Giàu có nhưng lệ thuộc đồng tiền, làm cho chất lượng cuộc sống thấp. Được
cái em nó biết căn cơ từ lúc 5 – 7 tuổi, cái đận cả nhà vào rừng, ở nhà một
mình Tâm biết hái rau tập tàng, kiếm cái mẻ bác nấu canh muối cho cả nhà ăn”.
Trong 7 anh chị em, mỗi đứa mỗi nết, chỉ có anh Hợi và Hiểu là hiếu đễ bậc
nhất, không bao giờ sao nhãng việc nuôi thân dưỡng tâm cho cha mẹ. Cha cảm ơn
các con. Cha biết ơn các con, cả 4 con trai đều phát huy truyền thống võ công
và văn trị của dòng họ Mạc nhà ta, nối nghiệp nho gia của cha – cái nghề dạy
người thật thanh bạch, nghèo chút nhưng sống ra con người”. Nói đến đây ông
rung rung chòm râu, rơm rớm nước mắt. “Còn mẹ thì sao cha ?” “Không có mẹ thì
cái nhà này không thành. Mẹ là nội tướng quán xuyến trong ngoài, bếp núc đỏ
lửa, mâm cỗ cúng tế Gia tiên tươm tất, đối nhân xử thế với họ hàng nhân hậu
lịch lãm, người hy sinh tất cả để tái tạo, dẫn dắt tương lai. Cha con ta chịu
ơn mẹ nhiều lắm”.
“
- Thế cha có oán trách ai không cha ?” Ông lặng đi một lát rồi cất tiếng -
“Ngồi buồn mà trách ông Xanh – Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười”. Trách ai
được con. Thực ra thì họ cũng là nạn nhân. Nạn nhân của sự ngu dốt, tham lam và
đố kỵ. “Nhân chi sơ tính bản thiện” – thầy Mạnh Tử bảo thế, nhưng Tuân Tử ngoặc lại “Nhân chi sơ tính bản ác”. Cái xứ mình nó
thế. Không có gì nhân đức bằng con người nhưng cũng không có gì tàn ác bằng con
người. Thôi thì, có thân có khổ, có khổ mới nên thân. “Cha có nhận xét gì về
những cuộc cách mạng long trời lở đất tràn qua quê ta và giày xéo lên cuộc đời
của cha ?” “- Cách mạng !? nó không đem lại mục đích gì cao quý ngoài sự đổ vỡ
và chết chóc. Cuộc cách mạng mà con gọi là long trời lở đất đó đã giáng một đòn
chí tử vào xương sống đạo lý, tín nghĩa dân tộc được thiết lập xây đắp hàng
nghìn năm, nó tiêu diệt những đầu óc biết làm ăn và quản lý kinh tế ở nông thôn
và thành thị, nó triệt hết trí thức hiền tài nguyên khí của quốc gia. Không
hiểu làm sao người ta lại dại dột chọc tay vào mắt mình” “ – Cách mạng là phản
cách mạng – ông Mabớp triết gia Pháp đã nhận xét về những cuộc cách mạng tư sản
như vậy đấy”.
Sang
năm sau, 5-12-1988 cha tôi đi thật. Ông bị tiêu chảy, không chữa, hai ngày thì
mất. Bà con họ hàng quyến thuộc, những bệnh nhân khắp huyện nghe tin thương
tiếc một người hiền. Họ đến đưa tang
đông chật cả thung lũng Cây Chanh để vĩnh biệt vị bồ tát ân nhân cứu khổ cứu
mạng của mình. Ngày cha mất, tôi không
về chịu tang được vì không có một đồng tiền nào cả. Khốn nạn thân tôi
với cái nghề cao quý chết đói. Việc này cha tôi đã dặn rồi “Cha chết thì đừng
về, đã có họ hàng bà con ngoài này lo. Về thì mang công mắc nợ khốn thân
con”. Tôi cùng út Quỳnh nằm khóc
cha suốt ba ngày ba đêm, mắt sưng húp
không nhìn thấy gì cả
Sinh
1904. 11 tuổi (1915) mồ côi cha, cùng người mẹ trẻ nuôi nấng và dẫn dắt một bầy
em lít nhít 4 đứa. 15 tuổi (1919) thay cha chăm sóc ông nội ốm liệt giường. 22
tuổi (1926) – (1945) làm giáo sư Hương trường. 24 tuổi (1928) bất bình với
Pháp, tham gia hoạt động cách mạng. 26 tuổi (1930) vào tù bởi vụ Xô viết Nghệ
Tĩnh. 27 tuổi (1931) gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. 41 tuổi (1945) tham gia
cướp chính quyền ở địa phương, làm Chủ tịch làng Kim Liên. 42 tuổi (1946-1948) Trưởng ban Bình dân
học vụ xã. 49 tuổi (1953) mắc phải vạ vu khống làm Bộ trưởng Giáo dục. 51 tuổi
bị quy là địa chủ. 56 tuổi (1960- 1987) làm Bác sĩ Đông y trực trạm xá xã Thịnh
Sơn. Năm 85 tuổi (1988) giã từ cõi thế.
Con
Rồng đất đã giáng mang người đi rồi ! Thái Trung Tiên! ông Tiên giữa đời đẹp
lão, vị trích tiên đạo cốt đã về Trời thật rồi ! Adi đà Phật !
Một
buổi sáng vào năm 2009, khi còn ở trên nhà viết Hương Viên Các, Gò Vấp, tôi thức dậy thì liền thấy cha tôi ngồi
cạnh bên, âu yếm nhìn tôi như hồi còn tấm bé, như hồi cha con tôi háo hức thức
đón giao thừa bên mâm cỗ Tết cúng Gia tiên. Tôi thảng thốt kêu lên “Cha ơi cha
! Con đây!”. Tôi đưa tay ôm chầm lấy người. Ông biến mất. Thì ra hình tôi chiếu
vào trong tấm gương soi trên cánh cửa tủ đặt cạnh giường.
Buồn.
Bâng khuâng suốt cả một ngày trời...
Bao
nhiêu ảnh hình thân thuộc theo ký ức lại hiện về. Này đây, cha đang đi chân
nâng - ồ không người đang đi trên mặt nước sông đào xanh trong như đi trên đất
đầy khói sương; này đây cha đang rung đùi và cười vang khi một sáng tìm được tứ
thơ “Thanh nhàn vui vẻ là người thần tiên”; này đây, cha tỉ mần gắn kết từng cái
bát yêu sứ vỡ bằng xi măng để có cái ăn
đồ đựng cho cả nhà; này đây, cha đang phá vườn để trồng toàn thuốc nam chữa
bệnh cho dân; này đây cha an ủi và dặn dò bệnh nhân bằng vẻ mặt ân cần từ tâm,
tôi cứ ngỡ như Hải Thượng tái thế; này đây cha con ta đang trò chuyện y đức y thuật, chuyện trước tác của tôi
trong hầm rồi ngủ quên lúc nào không hay, cứ
đinh ninh có bốn bao thuốc nam
sơ chế
che chắn bom đạn an toàn cho cha con mình tròn giấc; đây nữa cha cùng mẹ
đứng trước một vườn cải rực rỡ hoa vàng rù rì đàn ong đến hút mật; và đây cha
râu tóc bạc phơ quây quần giữa con cháu đến mừng tuổi thọ…
Cha
ơi, con xót xa và tự hào về cha ! Cha đã vượt qua những chặng đường khổ ải với
nhiều ân oán của bọn lang băm chính trị đểu cáng để trở thành vị Phật sống luôn
hiện hữu giữa đời.
[Trích chương 17 ÂM
VANG CỦA TIỀM THỨC,
hồi ký của Thái Doãn Hiểu, chưa in]
[Trích chương 17 ÂM
VANG CỦA TIỀM THỨC,
hồi