( Về bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH của Thâm Tâm)
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng…
-Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay
Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Người đi? Ừ nhỉ người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say…
Thâm Tâm (1917-1950) sáng tác chưa nhiều, tuy nhiên, chỉ với “Chiều mưa đường số 5” và “Tống biệt hành”, tên tuổi ông cũng đã khắc sâu vào lịch sử văn chương nước nhà, như một nhà thơ nổi tiếng. Và có giọng điệu riêng, đầy ấn tượng!
Bài thơ “Tống biệt hành”, thực ra cũng chỉ mới được tôn vinh trở lại từ khi có tư tưởng đổi mới. Hơn thế, nó còn được đưa vào sách giáo khoa, được nghiên cứu, bình giải, như một bài thơ đặc sắc của thơ ca tiếng Việt thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đó cũng là một sự công bằng lịch sử!
Tuy nhiên, “Tống biệt hành” của Thâm Tâm, quả là một bài thơ có nội hàm phong phú. Đã xảy ra rất nhiều tranh biện về bài thơ này, cả về giá trị nội dung và nghệ thuật. Nhìn chung, cũng chưa hẳn là “xuôi chèo mát mái”, chưa hẳn người đọc người nghe đã tâm phục khẩu phục! Điều ấy cho hay, “Tống biệt hành” là một bài thơ chứa nhiều uẩn súc trong các hình ảnh, hình tượng thơ, trong cấu trúc thẩm mỹ, trong bối cảnh sáng tác…
Ngay cái tên bài thơ, toàn là từ Hán Việt. Có người hiểu “Hành” ở đây là một thể thơ (Thể Hành). Nhưng nếu ghép đầy đủ cả ba từ Hán Việt này thành một cụm từ, thì đơn giản chỉ là “Tiễn biệt người ra đi”…Thế thôi!
Vậy thì ai tiễn ai? Căn cứ vào bề mặt câu chữ “Đưa người ta không đưa qua sông”…thì có vẻ như tác giả bài thơ (Ta), cùng với gia đình (mẹ, một chị, hai chị và em gái) tiễn một người nào đó ra đi, một người bạn chẳng hạn, như tiễn biệt một tráng sỹ đi làm một công việc đặc biệt gì đó, vì nghĩa lớn, cao cả, ví như việc tiễn chàng hiệp sỹ Kinh Kha đi tiêu diệt Tần Thuỷ Hoàng, đã diễn ra ở bên Tàu cách đây mấy nghìn năm.
Tôi cho rằng, nhân vật trữ tình “Ta” với “Người” ở đây có lẽ chỉ là một. Nghĩa là “ta” cùng với gia đình tiễn biệt chính “Ta”, chứ chẳng phải là tiễn đưa một ai khác! Hãy đọc lại đoạn thơ mở đầu thử xem: “Đưa người ta không đưa qua sông/ sao có tiếng sóng ở trong lòng? / Nắng chiều không thắm không vàng vọt / sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?”…
Hãy khoan nói về nghệ thuật sử dụng các vần “bằng”, “trắc”, về nhịp thơ… để tạo dựng âm thanh, tiết tấu, gợi mở tâm trạng, gợi mở không gian bi tráng của đoạn thơ mở đầu, chỉ nói về bối cảnh tiễn đưa. Rằng “ta” tiễn một người ra đi, chẳng qua sông sâu biển rộng gì sất, mà nghe rõ như có tiếng sóng đang vỗ ào ạt trong lòng. Đấy là hỏi chính mình, đồng thời khẳng định đó chính là cảm xúc của chính mình, cảm xúc của một cuộc ra đi, linh cảm hình như là chẳng có ngày trở lại. Thế nên, đó là một cảm xúc buồn, mơ hồ buồn. “Nắng chiều không thắm không vàng vọt / sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?” Nỗi buồn đã nhuốm vào cả thiên nhiên, đến như ráng chiều cũng giài giại đi, “không thắm không vàng vọt”, ấy thế mà người ra đi cũng nhuốm đầy hoàng hôn trong đôi mắt trong veo, ráo hoảnh của mình.
Đoạn thơ mở đầu đã thấy dự báo một cuộc chia ly vĩnh viễn, như một định mệnh. Xốn xang buồn, bi tráng, nhưng vẫn làm chủ được mình, bởi đã trải qua bao vật vã nghĩ suy, rồi mới đi đến một quyết định dứt khoát. Người đọc thấy nể trọng một nhân cách lớn, không dối mình, không dối người, không lãng mạn viển vông, cũng không lên gân to tát. Bởi đó chính là tiếng nói của trái tim, nhân bản! Hãy nghe người thơ chiến sỹ tâm sự:
“Đưa người, ta chỉ đưa người ấy / một giã gia đình, một dửng dưng”…Thế là “ta” tiễn biệt chính “ta”, “ta chỉ đưa người ấy”, nên mới “một giã gia đình, một dửng dưng”. Một khi mục tiêu đã xác định, chí đã quyết, thì “chí lớn chưa về bàn tay không / thì không bao giờ nói trở lại”, thì “ba năm mẹ già cũng đừng mong”! Cảm giác như người ra đi đang bừng bừng nghĩa khí, bất giác thốt lên những lời ca tráng sỹ, như cố xua đi, gạt phăng đi những cảm xúc có phần yếu đuối đang len lỏi trong tâm hồn tuổi trẻ yêu đời. Đó cũng là một cảm xúc chân thành, không phải chỉ Thâm Tâm mới có.
Tuy nhiên, để có một quyết tâm cao độ, dứt khoát như vậy, thật không đơn giản chút nào. Hãy nghe tác giả trình bày:
“Ta biết người buồn chiều hôm trước”, “Ta biết người buồn sáng hôm nay”. Thế nghĩa là buồn đã mấy ngày, trăn trở đã mấy ngày, chứ đâu phải đi vào chỗ hiểm nguy, vào chỗ có thể hy sinh mà bảo là tươi vui ngay cho được? Có lẽ người ra đi suy nghĩ lung lắm, phần thương mẹ già, em nhỏ, các chị gái chưa chồng, chiến tranh loạn lạc thế này, trai tráng ra đi hết cả, “bây giờ mùa hạ sen nở nốt”, biết đâu rồi “một chị hai chị cũng như sen”, nở rồi cũng sẽ tàn? Có thể các chị “khuyên nốt em trai” bằng những dòng lệ xót xa thương cảm, còn sót lại, sau khi đã chảy nhiều rồi. Còn cô em gái bé bỏng ngây thơ, thương anh, cũng chỉ biết “gói tròn thương tiếc”, gói lại những giọt nước mắt xót thương anh trong chính chiếc khăn tay bé nhỏ của mình…
Cuối cùng, những buồn thương, những xót xa trong buổi tiễn đưa người ra đi rồi cũng tạm lắng dịu. Tác giả dường như vừa chợt tỉnh cơn mơ: “Người đi? ừ nhỉ người đi thực!”. Thế là đi thật rồi, chia ly thật rồi! Bao vật vã giằng xé, lại dồn nén, rồi bật ra những lời tâm sự chí tình. “Ly khách” dường như đang nói lời tâm huyết với mẹ, với chị và với em, xem như lời dặn dò sâu nặng: Với mẹ, thì xin mẹ hãy coi con như một chiếc lá, một chiếc lá xanh, một “chiếc lá bay”…Với chị, xin hãy cứ coi thằng em trai này như một hạt bụi trên đời, thân cát bụi lại trở về cát bụi, thế thôi. Còn với đứa em bé nhỏ “mắt ngây thơ”, tình cảm anh em, hãy xem đó chỉ là một thoáng tươi đẹp trong đời, “như hơi rượu say”, rồi sẽ dần nguôi quên…
“Tống biệt hành” của Thâm Tâm, như tôi thiển nghĩ, chỉ là bài thơ kiểu tự tình, tự đối diện với chính mình, tự phân thân như một thủ pháp nghệ thuật. Các hình ảnh, hình tượng thơ và cấu trúc hình thức, phải chăng, chỉ là cách biểu hiện độc đáo của tâm trạng, trong một bối cảnh đặc biệt nào đó của nhân vật trữ tình? Có thể là chính tác giả, cùng với những xúc cảm chân thành, khi quyết định bước chân vào trường tranh đấu đầy hiểm nguy, linh cảm sẽ có thể hy sinh. Một phần, cũng có thể tác giả trình bày như một ký thác tâm tư tình cảm của những người lính “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” chẳng hạn… Cũng chẳng nên rạch ròi quá làm gì, bởi thơ là nghệ thuật tuyệt diệu của trí tưởng tượng, phập phồng thực ảo, huyền bí sâu xa. Người đọc cảm nhận ở “Tống biệt hành” một tấm chân tình, một nỗi niềm trung thực, sáng trong, nhuốm màu bi tráng của một thời khốc liệt và oanh liệt của dân tộc đã qua.
Thâm Tâm (Liệt sỹ Nguyễn Tuấn Trình), chàng trai Xứ Đông tràn đầy nhiệt huyết đã ngã xuống khi tuổi đời đang sung sức. Vậy nên, “Tống biệt hành” có thể xem là một bài thơ dự báo định mệnh. Đó là một bài thơ rất lạ, đến nay còn lạ, khiến người đời sau phải rơi nước mắt, phải nghĩ ngợi mãi chưa thôi!
Hà Nội 15-10-2010