Để tưởng nhớ bạn hiền sau một năm cách xa...
Chu Văn Sơn ít làm thơ, nếu không muốn nói rằng: hai bài thơ anh viết khi lãng du trên đỉnh Mẫu Sơn có thể là duy nhất. Chất thơ và chất suy tưởng tràn ngập trong tâm hồn anh đã trang trải hết trong các bài phê bình và tùy bút, như bài tùy bút viết về hoa lau – “Phận hoa bên lề” mà trong đó anh bảo: lau như phận hoa lưu đày, và con đường của phận người là đường tới hoa lau… Nhưng có lẽ, phải bằng thơ, Chu Văn Sơn mới tạm yên lòng trước thân phận của một loài hoa khiến anh trăn trở xúc động tới độ chảy nước mắt.
Nhân một lần tới đỉnh Mẫu Sơn vào dịp mà ngay giữa Thủ đô mọi người phải mặc áo đại hàn, Chu Văn Sơn đã “gặt hái” được hai “bông hoa thơ” về Tuyết và Hoa Layơn. Đều là cảm hứng về sự cô đơn, sự lãng quên, song “Tuyết Mẫu Sơn” mới chỉ là sự gợi mở, gợi hứng, còn “Hoa Layơn đỉnh Mẫu Sơn” lại như một sự tổng kết, sự suy ngẫm của anh về nhân tình thế thái… Chu Văn Sơn viết cho tôi trong một thư điện tử: “Trên đỉnh Mẫu Sơn có một loài hoa do người Pháp mang sang trồng trong những khuôn viên biệt thự từ đầu thế kỉ trước. Sau 1945, người Pháp đã đi khỏi xứ này, hoa bị bỏ lại. Thành hoa hoang. Giờ vẫn mọc lẫn giữa hoa hoang cỏ dại. Giống bị thoái hóa, gầy guộc nhợt nhạt. Rất thương. Đó là Layơn. Phận hoa? Phận đàn bà? Phận người? Thân phận cái đẹp?… Thấy lẫn lộn trong một kiếp Layơn ấy.”
Hoa Layơn đỉnh Mẫu Sơn
Những cành Layơn
cong queo
gầy rớt
ngập đời giữa đám cỏ hoang
từng bông lơ ngơ
từng bông nhàu ướt
từng bông tái nhợt
cố nhoi lên
cố kiễng lên
nhìn mây cuốn về xa
Bàn tay xưa giờ nâng niu chăm chút chốn nào
ánh mắt xưa giờ say ngắm nơi đâu
bỏ rơi hoa nơi lưng trời
chôn chân hoa nơi đất khách
giữa thinh không mình em đơn độc
mòn mỏi kiếp hoa hoang vu…
Biết chia sẻ làm sao trước dáng hoa trầm cảm
biết an ủi làm sao trước phận hoa lưu đày
khi giọt tuyết của mùa đông cũ
vẫn thầm hoen nhụy phấn mỗi ngày
Muốn nói với em lời vu vơ như gió
e rằng hoa đã sương gió một đời
muốn tỏ cùng hoa lời nồng nàn của nắng
e hoàng hôn phai trên cánh
lại thôi
Muốn nán lại bên hoa
mà ngại mình nông nổi
muốn đem hoa đi
mà đời mình rong ruổi
lại thôi
Tần ngần Layơn
dùng dằng đỉnh núi
còi xa cuồng lên réo gọi
đành lòng
phải đành lòng
thôi
Chào nhé
chao ôi lời chào nhé
lời cỏ hoang
lời đỉnh vắng
lời mặn sương
lời nhạt nắng
lời nào không cực lòng nhau
Sao từ khi
một mình xuống núi
trái núi nào
cũng mộng mị Mẫu Sơn
sắc hoa nào
cũng tái nhợt
Layơn…
Là người chuyên nghiên cứu về thơ đến độ chìm đắm trong thơ, khi viết “Hoa Layơn đỉnh Mẫu Sơn” chắc hẳn Chu Văn Sơn phải nghĩ ngay đến những nhà thơ lãng mạn Pháp thế kỷ XIX thường lấy hoa làm thi liệu, thi hứng, thi cảm… Nhưng cũng thật may, thói quen luận lý, khái quát của một nhà phê bình lý luận văn chương trong anh đã biến hẳn đi trước những bông Layơn mỏng manh yếu ớt, để mình anh trơ trọi với xúc cảm thi sĩ… Mà đã là thi sĩ đích thực, ai mà không thể không khóc cùng G. Apollinaire “Giã biệt” hoa: Anh đã ngắt chùm hoa thạch thảo này/ Mùa thu đã chết, em nhớ cho/ Chúng ta sẽ chẳng còn gặp nhau trên mặt đất/ Hương thời gian ở chùm hoa thạch thảo / Và em hãy nhớ: anh vẫn chờ đợi em (L’ Adieu). Xin nhớ lại cuốn tiểu thuyết kiệt tác “Vỡ mộng” (Illusions perdues) của H. Balzac, nhân vật chính ở giai đoạn trong sáng đẹp đẽ nhất đã có một tập bản thảo thơ đầu tay mang tên hoa: “Những bông cúc”… Và những “bông cúc tâm hồn” của chàng thanh niên thi sĩ Lucien Chardon tội nghiệp đã bị những quy luật của đồng tiền giết dần giết mòn đến thê thảm!
Đến Mẫu Sơn, thi sĩ đã “bất ngờ” chứng kiến cảnh hoa Layơn, tuy chưa bị ngắt, bị giết, nhưng nếu như vậy còn đỡ đau lòng hơn cảnh: Những cành Layơn/ cong queo/ gầy rớt/ ngập đời giữa đám cỏ hoang/ từng bông lơ ngơ/ từng bông nhàu ướt/ từng bông tái nhợt/ cố nhoi lên/ cố kiễng lên/ nhìn mây cuốn về xa
Thi sĩ buộc phải tự hỏi trong nỗi niềm se sắt, có đượm oán giận, trách móc: Ai đã đem em tới Mẫu Sơn… Bởi anh mặc nhiên coi hoa tựa một sinh mệnh đáng yêu, mỏng manh, yếu đuối, thơ ngây, mang trong mình biểu tượng của Tình yêu, sự hài hoà nguyên sơ thánh thiện nhưng lại có rất ít khả năng tự bảo vệ: Bàn tay xưa giờ nâng niu chăm chút chốn nào/ánh mắt xưa giờ say ngắm nơi đâu/ bỏ rơi hoa nơi lưng trời/ chôn chân hoa nơi đất khách / giữa thinh không mình em đơn độc / mòn mỏi kiếp hoa hoang vu…
Đồng thời thi sĩ cũng cảm thấy rõ một sự thật cay đắng – đó là sự bất lực của chính mình trước phận người, phận hoa trong cơn lũ thực dụng của thế giới “Tấn trò đời”: Biết chia sẻ làm sao trước dáng hoa trầm cảm/ biết an ủi làm sao trước phận hoa lưu đày/ khi giọt tuyết của mùa đông cũ/ vẫn thầm hoen nhụy phấn mỗi ngày
Thế rồi, sự tần ngần, băn khoăn, lưỡng lự với tâm lý đời thường nhưng cũng đầy nhân bản và tinh tế của thi sĩ trước những bông hoa gầy yếu khiến nỗi đau lòng xa xót như càng khía sâu thêm vào lòng người đọc: Muốn nói với em lời vu vơ như gió/ e rằng hoa đã sương gió một đời/ muốn tỏ cùng hoa lời nồng nàn của nắng/ e hoàng hôn phai trên cánh / lại thôi/ Muốn nán lại bên hoa/ mà ngại mình nông nổi/ muốn đem hoa đi/ mà đời mình rong ruổi/ lại thôi/ Tần ngần Layơn/ dùng dằng đỉnh núi/ còi xa cuồng lên réo gọi/ đành lòng/ phải đành lòng/ thôi
Việc ngắt câu thất thường cũng góp phần diễn tả nỗi lòng ngổn ngang, đứt gãy, khó xử, để tới đoạn sau, lời chào của thi sĩ chợt giống một tiếng thở dài, sau đó là một tiếng khóc cố nén lại nhưng cuối cùng cũng phải vỡ ra thành những lời nghẹn ngào: Chào nhé/ chao ôi lời chào nhé/ lời cỏ hoang/ lời đỉnh vắng/ lời mặn sương/ lời nhạt nắng/ lời nào không cực lòng nhau
Tĩnh tâm lại, chàng thi sĩ đa cảm đã ngẫm nghĩ về cái cuộc đời vốn nặng trĩu Mẫu Sơn, Layơn, nhưng ở đây lại có sức khái quát giàu khả năng liên tưởng và lay động: Sao từ khi/ một mình xuống núi/ trái núi nào/ cũng mộng mị Mẫu Sơn/ sắc hoa nào/ cũng tái nhợt/ Layơn
Và cũng chính nhờ sự khái quát này mà thi sĩ đã vượt lên khỏi sự đa cảm thông thường của người đời, để lại một lần nữa mặc nhiên bước vào “quỹ đạo” của những người lấy Cái Đẹp làm làm mục tiêu tối thượng, làm phương tiện giúp con người hướng thiện – những người đã lấy Hoa làm một trong những thứ quan trọng để có thể đặt hết cả niềm tin vào – nói như nhà thơ Pháp A. Rimbaud: Xác thịt, cẩm thạch, hoa, Vệ nữ, ta đặt niềm tin nơi các ngươi (Soleil et Chaire).
Nhà phê bình Văn Giá mới đây khi viết về tùy bút của Chu Văn Sơn đã nhận định chí lý: “Bộ ba tác phẩm “Angkor – những đối cực của cái đẹp”, “Sơn Đoòng”, “Kiếp tượng nhà mồ” đã vượt lên để đứng vào hàng tuyệt bút” (vanviet.info). Còn riêng tôi thì cho rằng, bài thơ “Hoa Layơn đỉnh Mẫu Sơn”, có thể coi là một tùy bút thơ, cũng chứa đựng toàn bộ hồn cốt của “người lụy Đẹp” (chữ của Văn Giá) – nhà phê bình Chu Văn Sơn.