Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

PHẨM CHẤT CỦA NGƯỜI LÍNH

Trần Văn Hạc
Thứ ba ngày 27 tháng 7 năm 2010 9:12 PM
 
“Anh luôn giữ được phẩm chất của người lính”. Đấy là lời khen tặng của bạn bè, nhân dân xã Xuân Lai, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái mỗi khi nói về người cựu chiến binh Hoàng Tương Lai. Bởi dù khi còn trong quân ngũ, hay đương nhiệm là bí thư Đảng ủy xã, hay trải lòng trong những trang văn, thơ, anh đều khắc phục khó khăn, đạt được những thành công khiến mọi người ngưỡng mộ và khâm phục.
Mới gặp anh ai cũng bị thu hút bởi vầng trán cao thông minh, ánh mắt sáng trong và tiếng cười lạc quan yêu đời. Bởi vậy anh trẻ hơn cái tuổi 57, với bao sóng gió.
Anh Hoàng Tương Lai là con trai của nhà văn Hoàng Hạc nổi tiếng. Anh lớn lên trong những khúc hát “Sli lượn”, “coọi”… của mẹ và lời ngâm “Khảm hải” của cha. Cái hồn văn hóa dân gian Tày ngấm vào anh tự lúc nào.
 Anh lớn lên khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang ở giai đoạn quyết liệt nhất. Anh bộc bạch với bạn bè: “Đánh Mỹ thắng lợi về học cũng chưa muộn”, thế rồi anh tình nguyện nhập ngũ. Bạn bè cựu chiến binh ở trung đoàn 174, sư đoàn 316 bây giờ gặp nhau vẫn nhắc đến Hoàng Tương Lai là người lính năng nổ, dũng cảm, hết lòng yêu thương đồng đội. Anh có mặt trong nhiều trận đánh lớn ở Cánh Đồng Chum năm 72 – 74, Buôn Ma Thuột 3.1975 và vinh dự tham gia trận đánh giải phóng Sài Gòn 4.1975. Đến 3.1976 anh phục viên, là thương binh 4/4 và tấm huy chương Kháng chiến hạng nhì. Nhưng anh ít nói về mình, bởi còn bao đồng đội vĩnh viễn không trở về, còn nhiều đồng đội bị thương nặng hơn, còn nhiều người lính lập được những chiến công to lớn hơn, góp phần không nhỏ vào thắng lợi to lớn của dân tộc.
Do cách sống luôn trung thực, thẳng thắn, gương mẫu và khiêm nhường như khi còn trong quân ngũ, nên từ năm 1976 đến nay, anh lần lượt được bà con tín nhiệm bầu đảm nhiệm những chức vụ: Bí thư Đoàn Thanh niên xã, chủ nhiệm hợp tác xã, bốn khóa liên tục là ủy viên ban chấp hành huyện ủy huyện Yên Bình và từ tháng 10.1988 đến nay là bí thư Đảng ủy xã Xuân Lai.
Nếu như trong công tác anh là một cán bộ mẫu mực, là trung tâm mối đoàn kết của Đảng bộ và bà con nhân dân các dân tộc trong xã, Đảng ủy luôn được công nhận danh hiệu “Trong sạch vững mạnh”, thì việc nhà, anh là một người chồng rất mực thủy chung, người cha đảm đang, gương mẫu. Vợ anh không may bị mắc bênh suy tim độ 4, tám năm trời anh vừa lo việc của xã hội, vừa lo việc gia đình. Một tay anh chăm lo cho vợ và nuôi dạy năm con nhỏ nên người. Cái năm 2005 khi chị qua đời gánh nặng gia đình trút xuống vai anh. Thế mà rồi anh lại vượt lên, như người lính trên chiến trường năm xưa. Chỉ khi một mình bên ảnh vợ, anh mới để cho nước mắt thấm trên những trang thơ tình nghĩa: “…Anh dậy thắp từng nén hương trước ảnh/ Vặn đèn lên anh nấc gọi mình ơi!/ Đặt bát cơm mà sao đũa cứ rơi/ Cơm canh nóng hãy cố ăn mình nhé/ Chẳng đợi con về anh đưa trước em ăn/ Món rau này anh hái trong vườn/ Vườn ngày trước em bắt sâu nhổ cỏ/ Luống hành, vườn cà, đám rau thơm còn đó/ Giàn trầu thơm từng đốt lá rụng rơi/ Các cháu hàng ngày nhớ em sang chơi/ Các cháu nhỏ nơi em ngồi cao quá…” – (Khóc vợ - Hoàng Tương Lai).
 Là hội viên Hội văn học nghệ thuật tỉnh Yên bái, hội viên Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, anh tiếp bước sự nghiệp của người cha kính yêu, mỗi trang anh viết đều thấm được cái hồn văn hóa dân gian Tày. Năm 2000, tập hồi ký: “Những ngày ở Cánh Đồng Chum” của anh được Hội nhà văn Việt Nam và Hội hữu nghị Việt – Lào trao giải khuyến khích. Năm 2005 tiết mục hát “Khảm hải” của anh được trao huy chương vàng hội diễn nghệ thuật quần chúng toàn quốc. Năm 2007 anh được trao giải B trong liên hoan tiếng hát dân ca toàn quốc lần II; giải nhì hát then trong liên hoan hát then, đàn tính toàn quốc. Anh còn được trao nhiều giải thưởng của về văn học của tỉnh. Công việc sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân gian Tày của cha anh còn dở dang nay đã có truyền nhân xứng đáng. Anh đã dầy công dồn bao tâm sức hoàn chỉnh cuốn sách về  hát “pựt” của dân tộc Tày do cha anh để lại: “Tàng mừa pía lệ đẳm” – (đường lên dâng lễ tổ). Cuốn sách này đã được Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam trao giải B (không có giải A). Hiện nay anh sắp cho xuất bản cuốn: “Hát quan làng, đưa dâu Tày” và “Sông Chảy những nét hoa văn”, viết về những tinh hoa văn hóa dân tộc Tày. Anh cũng sưu tầm và dịch gần hoàn chỉnh gần 500 bài hát giao duyên, hát “coọi”, “phong slư” Tày.
Mỗi khi nói về văn hóa dân gian Tày, đôi mắt anh lại sáng lên ngon lửa tình yêu văn hóa dân tộc. Gần đây gặp anh trong cuộc họp với báo Yên Bái, anh tâm sự:
- Còn nhiều việc phải làm quá, nhưng quĩ thời gian có hạn. Thời gian tới sẽ cố gắng sưu tầm, hoàn chỉnh những bài hát cổ truyền của dân tộc Tày và mở lớp truyền dạy cho lớp trẻ.
Rồi anh ôm đàn tính hát câu dân ca Tày, lời hát bập bùng như ngọn lửa: “Còn trẻ chẳng học coọi/ Ít tuổi chẳng học chữ/ Ngày chết lên thiên đình mới học/ Cởi quần mặc váy mốc thay em…”. Ôi ý nghĩa của bài “Khuyên trẻ” sao mà sâu sắc đến nhường vậy. Nếu không biết quí trọng nâng niu tinh hoa văn hóa của dân tộc, không đắm mình trong tinh hoa văn hóa dân tộc, có khác nào cây xanh thiếu đi mảnh đất tươi tốt và mạch nước nguồn thơm mát.
Nhìn khuôn mặt cương nghị và đôi mắt như có hai đốm lửa của anh, tôi hiểu
rằng, ngọn lửa văn hóa dân gian Tày luôn rực cháy trong anh và bản lĩnh của người
lính sẽ giúp anh bay cao, bay xa những khát vọng của mình.
   6.2010