(Đọc tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Thị Lộ của Hà Văn Thùy, Nhà xuất bản Văn Học, 2005)
Có một đại văn hào nói ở đâu đó rằng: Chính nhà văn chứ không phải ai khác, mới là người viết sử thật của cuộc đời. Câu nói này không hề hạ thấp nhà sử học mà nó nhằm lưu ý chúng ta rằng, với trí tưởng tượng mạnh mẽ (đặc trưng cơ bản của năng lực sáng tạo nghệ thuật của nhà văn), phải là nhà văn chứ không phải là nhà sử học, mới có thể tái hiện một cách chân thực và sống động những tiến trình lịch sử vốn luôn luôn bị che đậy, dấu kín (bí sử) dù ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào của bất kỳ quốc gia nào.
Câu nói vừa dẫn trên dù đã có từ rất lâu nhưng đến nay vẫn đúng và vẫn như là rất mới, nó như một tiên đề trong toán học. Song, không phải nhà văn nào cũng lĩnh hội được đầy đủ và sâu sắc ý tưởng tuyệt hay đó. Và thế là khi viết tiểu thuyết lịch sử, hầu hết các nhà văn chỉ làm cái việc đơn giản là kể lại lịch sử theo các tài liệu lịch sử của sử gia đã được công bố (chính sử). Cách làm này thường gọi là minh họa lịch sử và thật đáng tiếc là nó lại được khuyến khích với lý do cần có nhiều tác phẩm ca ngợi lịch sử hào hùng của dân tộc. Có một số nhà văn đã không đi theo xu hướng anh hùng ca đó mà soi rọi vào những tầng ẩn sâu của lịch sử thì lập tức “gặp rắc rối” mà điển hình là tác phẩm Nguyễn Trãi ở Đông Quan của Nguyễn Đình Thi!...
Đây là một vấn đề phức tạp chưa dễ gì có được những kiến giải thực sự khoa học. Trong quá trình chờ đợi “hạ hồi phân giải” vấn đề lớn nhà văn và lịch sử này, tôi thấy vẫn có những nhà văn đầy tâm huyết với lịch sử dân tộc, nhất là với những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử còn có nhiều nghi vấn. Một trong số đó là Hà Văn Thùy với tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Thị Lộ. Đây là một hướng đi đầy nhọc nhằn, trắc trở mà tác giả đã cho là cực khó, không phải ai cũng thành công. Song, với lòng ưu thời mẫn thế và khát vọng sáng tạo mạnh mẽ, Hà Văn Thùy đã chọn cho mình con đường cực khó này. Đó chính là điều thu hút người đọc đầu tiên – người đọc là công chúng văn học đích thực.
Trong Lời tựa đầu sách, tác giả đã dẫn ra một định nghĩa về lịch sử rằng: “Lịch sử là những văn bản do sử gia viết rồi sau đó không ngừng được viết lại” và khẳng định trường hợp Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ rất đúng với định nghĩa đó. Và tác giả đã viết lại hai nhân vật lịch sử này bằng tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Thị Lộ với quan niệm rõ ràng được dùng làm lời đề từ cho tác phẩm: “Nhà Văn, trong ý nghĩa nguyên sơ của từ này, chính là lương tri của dân tộc của thời đại, có nhiệm vụ giải mã tấm gương câm lặng của lịch sử để đưa ánh sáng rọi chiếu con đường đi tới cho dân tộc”. Đây là quan niệm đúng và không hề đại ngôn và nó càng cho ta thấy rõ hơn tại sao đi theo hướng này lại cực khó đối với nhà văn. Nhà văn cố gắng giải mã lịch sử. Đến lượt mình, nhà Phê bình giải mã tác phẩm của nhà văn. Như thế nhà Phê bình đã phải hai lần giải mã – “Giải mã sự giải mã”: Vừa phải làm “nổ tung văn bản” – Tác phẩm văn học, vừa phải thẩm định sự giải mã lịch sử của nhà văn.
Đây là công việc cực khó đối với nhà phê bình văn học. Vì thế, ở bài viết này tôi chỉ xin đưa ra những cảm nhận có tính ngẫu hứng với tư cách của một công chúng văn học, còn những thao tác chi tiết, bài bản của cái việc giải mã cực khó đó, xin nhường các nhà phê bình văn học chuyên nghiệp …
Trước hết, cần phải nói rằng tác giả của tiểu thuyết Nguyễn Thị Lộ đã có xuất phát điểm đúng. Hai nhân vật lịch sử Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ là đề tài lớn và không hề vơi cạn của sáng tạo nghệ thuật về đề tài lịch sử. Mối tình đã trở thành truyền thuyết của Nguyễn Trãi và cô nàng bán chiếu Nguyễn Thị Lộ từ lâu đã là thiên tình sử tuyệt đẹp trong nếp cảm, nếp nghĩ của công chúng. Và vụ án Trại Vải (Lệ chi viên) từ lâu đã được xem là thiên cổ kỳ án. Đó là lợi thế có sẵn của nhà văn khi khai thác đề tài. Song, nếu nhà văn chỉ viết theo kiểu “minh họa lịch sử” thì không thể vượt qua được nhà chép sử hạng xoàng. Điều đáng chú ý ở tiểu thuyết Nguyễn Thị Lộ là tác giả đã chọn nhân vật trung tâm là cô nàng bán chiếu xinh đẹp tài hoa và thiên tình sử Nguyễn Trãi – Nguyễn Thị Lộ được đan cài với một thiên tình sử khác lâu nay chưa được chú ý là tình yêu của Nguyễn Thị Lộ với vua Lê Thái Tông. Thoạt nhìn, ta có cảm giác là tác giả bị sa vào cái “mô-típ” mối tình tay ba cũ mèm trong văn chương từ cổ chí kim. Nhưng tác giả đã “giải mã” mối tình tay ba này bằng một cảm quan nghệ thuật vừa có sự cháy bỏng của con tim vừa có sự tỉnh táo của lý trí. Việc thể hiện những xung đột nội tâm trong Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ ở mối tình tay ba này đã được tác giả chú trọng và có sự “giải mã” khá thuyết phục.
Với Nguyễn Trãi là sự xử thế của một đại Nho chuẩn mực. Thật khó xử cho Nguyễn Trãi khi phải vừa giữ được tình yêu với Thị Lộ, vừa giữ được đạo quân – thần vừa giữ được chí lớn của một bậc đại Nho. Tác giả đã cho ta thấy được những suy tư của Nguyễn Trãi từ khi để Thị Lộ vào cung: …”Khi để nàng vào cung, ông chỉ có nỗi buồn là xa nàng. Nhưng trong cái thế bất khả kháng ấy, ông cũng thấy lóe lên tia hy vọng: ở trong cung, nàng có thể làm được việc ích nước lợi dân”(trang.169). Chính tư tưởng “Lấy đại cuộc làm trọng” đã giúp Nguyễn Trãi vượt qua những “cú sốc” dữ dội khi biết Thị Lộ đã “dan díu” với nhà vua trẻ, đã “…phản bội ông…đã đánh một đòn chí tử vào lòng tự hào và sĩ diện của ông” (tr.170). Và cuối cùng là cách xử thế không thể khác của Nguyễn Trãi trong “mối tình tay ba” này: “Trong hoàn cảnh éo le bất khả kháng của mình, ông tìm ra cách ứng xử riêng. Giữ mối tình cảm tốt đẹp với nàng, ông bày vẽ cho nàng giúp nhà vua làm những việc hữu ích” (tr.172). Và những lời ông nói với Thị Lộ thật là chân tình, thật là…Nguyễn Trãi: “Ta đã qua những ngày tủi nhục những ngày khổ đau. Nhưng rồi ta nghĩ ra: nàng còn trẻ, còn cần được yêu đương. Mà một người như Nguyên Long cũng đáng để nàng yêu lắm! Ta phải cảm ơn tình yêu nàng dành cho Nguyên Long. Chính tình yêu của nàng đã biến chàng thiếu niên Nguyên Long thành Thái Tông hoàng đế anh minh”(tr.224).
Và lời nói của nhà vua về Nguyễn Trãi là sự cảm phục: “Nguyễn Trãi thật lớn. Ông yêu nàng biết bao nhiêu. Chính vì vậy mà ông chịu hy sinh vì hạnh phúc của nàng. Trẫm càng trọng Nguyễn Trãi vì đã biết hi sinh cho nghĩa lớn” (tr.224). Xưa nay, đạt được sự “tâm phục, khẩu phục” ở những bậc quân vương thường rất hiếm hoi, nhất là trong “Chuyện Ái tình”.
Với Nguyễn Thị Lộ, đó là những cảm xúc rất “Nữ tính” khi nàng đang tuổi hồi xuân và đứng trước những tình huống chỉ có thể làm theo “Mệnh lệnh của con Tim”: “Còn Thị Lộ, như người từ tận cùng thất vọng, như kẻ từ dưới vực sâu được vớt lên, đã trải qua mọi tai họa, đã thấm tới
cùng kỳ lý của cuộc đời, không còn gì lo lắng, không còn gì ngăn cách, nàng cũng hết lòng buông thả cho tình yêu được hoàn toàn tự do, hoàn toàn giải phóng. Bấy lâu nay, nhờ Tình yêu của Nguyên Long, nàng phát hiện ra sự đam mê mãnh liệt của mình. Nàng hiểu rằng, nếu không gặp chàng trai trẻ này, những đam mê đó chắc sẽ lụi tàn và nàng nhanh chóng già đi trong vai người đàn bà đoan chính” (tr.225). Và giá trị thẩm mỹ của hình tượng nhân vật càng được đẩy lên cao, tới tận cùng khi tình yêu cuồng nhiệt của Thị Lộ, tình yêu mới được giải phóng đó đã gặp phải bi kịch đẫm máu là cái chết đột ngột của nhà vua trẻ sau cuộc giao hoan với Thị Lộ, tức “Vụ án Lệ chi viên” (tr.228). Một lần nữa, vụ án “Lệ chi viên” lại được tác giả Hà Văn Thùy “giải mã” bằng tình yêu cuồng nhiệt của Thị Lộ và Thái Tông hoàng đế!
Cái kết cục đầy bi kịch của mối tình tay ba đó là kỳ án Trại Vải. Sự giải mã lịch sử của tác giả có đạt được thành công hay không và sự thành công tới mức nào như vừa nói trên, cần phải chờ sự phán xét của công chúng văn học, sự kiểm chứng của thời gian bởi công chúng văn học luôn là vị quan tòa công minh nhất và mỗi thời kỳ, tác phẩm văn học lại được phán xét ở một giác độ khác!
Điều đáng ghi nhận nữa ở tiểu thuyết Nguyễn Thị Lộ là nhân vật Nguyễn Trãi tuy không phải là nhân vật chủ đề, nhân vật trung tâm của cuốn tiểu thuyết nhưng hình ảnh nhà thơ, nhà văn hóa, nhà chính trị Nguyễn Trãi hiện ra thật sinh động, sắc nét. Nếu như có ai đó viết cuốn tiểu thuyết khác lấy “đích danh” là Nguyễn Trãi thì cũng có thể nói trước rằng cuốn tiểu thuyết Nguyễn Thị Lộ này cũng không hề thua kém gì trong việc khắc họa hình tượng nhân vật Nguyễn Trãi. Nói cách khác, nếu muốn đọc tiểu thuyết về Nguyễn Trãi thì hãy tìm đọc tiểu thuyết Nguyễn Thị Lộ! Nói vậy cũng không đến nỗi quá đáng lắm, bởi trong tiểu thuyết Nguyễn Thị Lộ, hễ có thời cơ, có dịp là tác giả lại giành để nói về văn, thơ của Nguyễn Trãi. Chẳng hạn như trong một cuộc viếng thăm của nhà vua tới nhà Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, khi đi dạo trong vườn, tác giả đã giới thiệu và kiến giải thỏa đáng với bạn đọc một bài thơ nhỏ nhưng rất hay của Nguyễn Trãi mà một dạo các nhà thơ, nhà nghiên cứu đã tốn khá nhiều giấy bút để tranh luận về ý nghĩa của bài thơ Cây chuối này:
“Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, màu thâu đêm.
Tình thư một bức phong còn kín.
Gió nơi đâu gượng mở xem”.
*
Đề tài lịch sử luôn luôn là một sự hấp dẫn kỳ lạ đối với nhà văn. Bởi lịch sử luôn tồn đọng những bí ẩn không thể “giải mã” một cách dễ dàng. Chính vì thế, đề tài lịch sử luôn luôn là một sự thách đố lớn đối với nhà văn. Hy vọng tiểu thuyết Nguyễn Thị Lộ của Hà Văn Thùy đã đáp ứng được phần nào nhu cầu “giải mã” lịch sử của công chúng văn học và chúng tôi tin rằng sẽ còn những “giải mã lịch sử” khác về nhân vật Nguyễn Thị Lộ sau cuốn tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Thị Lộ này./.
Sài Gòn, tháng 6-2010