Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

NGHỀ BIÊN TẬP

Đắc Trung
Thứ bẩy ngày 3 tháng 7 năm 2010 8:47 PM

      Cha ông ta ngày xưa coi “ văn là để tải đạo”, chữ Thánh hiền quý hơn báu vật, rất trân trọng. Thấy tờ giấy có chữ rơi dưới đất phải cúi xuống nhặt lên chứ không dám bước qua. Sách kết tụ của tâm linh thần thái. Bởi thế người không sạch, không được đọc, quần áo tóc râu không chỉnh tề, không được đọc, chưa thắp hương để nhập thiền tiếp đạo, chưa được đọc. Người biên tập sách gọi là quan tu thư, hàng tứ phẩm trực thuộc triều đình và được tuyển chọn công phu, đỗ đạt cao, thấp nhất cũng phải thám hoa, bảng nhãn trở lên. Cổ nhân trọng sự thâm thuý. Bạc đầu mới nghĩ được một ý, một tứ, viết cho đúng một chữ để đạt cho đủ mọi nghĩa. Bởi thế người làm tu thư muốn hiểu trọn vẹn cái thần ý, cái thâm ý, cả nông sâu, rộng hẹp, nghĩa đen, nghĩa bóng của một nét chữ, một từ, một câu, dấu ngắt, dấu nối, dấu khuyên cho tới một điển tích, một tác phẩm đâu dễ. Phải thông kim bác cổ lắm. Chẳng hạn trong một bài thơ trữ tình của cụ Tú Xương có câu:
“ Ai đi Tam Đảo, Ngũ Hồ
Ai về khóc trúc Thương Ngô một mình”
      Đã có người bình câu này và giải thích rằng “ khóc trúc thương ngô ” là khóc cây trúc thương cây ngô. Thật ra không phải như vậy. Ý câu thơ của cụ Tú gắn với một điển tích. Điển tích đó là: ngày xưa khi vua Thuấn ( Trung Quốc ) qua đời để lại người vợ yêu còn rất trẻ. Người vợ thương chồng quá vật vã khóc lóc thảm thiết. Nỗi đau khiến nước mắt của nàng hoà lẫn máu. Những dòng huyết lệ đó rơi xuống, bắn vào những đốt cây trúc trồng trên đất Thương Ngô ( giống như cây cam trồng trên đất Bố Hạ ở nước ta ) để lại trên đốt trúc biết bao vết lấm chấm và giữ mãi ở đó cho đến ngày nay. Đó là biểu tượng của tình yêu sâu sắc, mãnh liệt và chung thuỷ nhưng giữa chừng đứt gánh.
    Hoặc thi tài Tản Đà danh tiếng vang dội ai không biết. Đặc biệt bài “ Thề non nước ” cụ gửi gắm biết bao tâm sự da diết và sâu sắc của lòng mình, lần đầu đăng trên tờ Nam Phong. Trong đó có câu :
 “ Non cao những ngóng cùng trông
Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày”
          Chừng tháng sau nhà thơ nhận được bức thư của một cụ đồ nho quê huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Cụ đồ viết đã hân hạnh được đọc nhiều thơ của Tản Đà tiên sinh và rất ngưỡng mộ. Vừa qua lại được thưởng thức thi phẩm “ Thề non nước ” cảm phục ý sâu, lời hay. Nhưng nếu tiên sinh cho phép được sửa, thì cụ xin sửa một từ trong bài thơ ấy, rồi bỏ lửng, không rõ là từ nào. Đọc thư Tản Đà mừng lắm. Biết đây là bậc trí lự uyên thâm có thể kết tình bằng hữu, liền sắm trà ngon đáp tầu hoả đến ga Đồng Văn rồi thuê xe kéo hỏi đường tìm đến tận nhà cụ đồ. Cụ đồ vô cùng cảm kích được nhà thơ đến thăm, rượu ngon, thức nhắm ngon trịnh trọng mời khách. Hai cụ già rất ý hợp tâm đồng, mới gặp lần đầu mà chẳng khác tri âm, tri kỷ. Lựa lúc thuận lợi Tản Đà mới tế nhị ngỏ ý xin cụ đồ chỉ giáo cho biết nên sửa từ nào trong bài “ Thề non nước ” . Cụ đồ đắn đo, cân nhắc rồi nói: “ Nếu tiên sinh cho phép, tôi xin được sửa từ tuôn thành  khô... Suối  khô dòng lệ chờ mong tháng ngày ”. Suy nghĩ một chút Tản Đà vỗ đùi gật gù: “ Hay ! Rất hay ! Suối khô dòng lệ, tức là đã khóc nhiều quá rồi, lâu quá rồi, nước mắt cạn kiệt rồi còn đâu nữa mà tuôn. Hơn thế, cái nỗi nhớ, nỗi buồn, nỗi đau phải nén lại, phải nuốt vào trong tâm, phải nghiến răng chịu đựng mới là nỗi buồn lớn, nỗi đau lớn. Đau cho số phận kiếp người, đau cho non sông đất nước, đau cho vận mệnh quốc gia dân tộc. Tản Đà rất cám ơn cụ đồ Duy Tiên và sửa từ tuôn thành từ khô trong bài “ Thề non nước ” là vậy.
    Triều nhà Tống ( Trung Quốc ) có hai người rất nổi tiếng. Đó là nhà thơ Tô Đông Pha và Tể tướng kiêm nhà văn Vương An Thạch. Tô Đông Pha không phục Vương An Thạch về tài thơ, coi Vương An Thạch không bằng mình. Vương An Thạch biết nhưng chỉ im lặng. Một lần Vương An Thạch mời Tô Đông Pha đến tư dinh của mình chơi và ông rất tế nhị cố ý vắng mặt khi Tô Đông Pha bước vào phòng văn. Nhìn trên bàn Tô Đông Pha thấy bản thảo một bài thơ đã làm xong và một bài đang làm dở, tò mò liếc đọc. Bài thứ nhất có câu:
“  Minh nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm”
            Ông nhíu mày nghĩ: minh nguyệt là ánh trăng. Sơn là núi. Khiếu là hót. Ánh trăng thì làm sao hót nơi đầu núi được ? Ông lắc đầu. Hoàng khuyển là chó vàng. Ngọa là nằm. Hoa tâm là giữa bông hoa. Chó vàng làm sao nằm giữa bông hoa được ? Ông lại lắc đầu và càng tỏ ra coi thường tác giả. Tiện bút Tô Đông Pha “ biên tập ” lại ngay thành:
“ Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm”
     Có nghĩa ánh trăng chiếu nơi đầu núi. Chó vàng nằm dưới bóng hoa. “ Biên tập ” xong Tô Đông Pha tỏ ra rất hài lòng, mãn nguyện, đinh ninh rằng qua việc làm này thì Vương An Thạch phải “ tâm phục, khẩu phục ” mình lắm.
   Bài thơ thứ hai Vương An Thạch tả cảnh mùa đông hoa cúc rụng tơi tả.
 “ Tây phong tạc dạ qúa viên lâm
Xuy lạc hoàng hoa mãn địa câm ”
( Đêm qua gió thu qua rừng vườn. Thổi rụng hoa cúc vàng khắp mặt đất )
Bực quá, không kìm được, Tô Đông Pha cầm bút theo vần viết tiếp hai câu:
“ Thu hoa bất tỷ xuân hoa lạc
Thuyết dữ thi nhân tử tế ngâm”
       ( Hoa thu không rụng như hoa xuân. Xin nhắc thi nhân chớ khinh suất lúc ngâm vịnh ). Ông cho rằng hoa cúc không bao giờ rụng. Bởi từ lâu ông thấy hoa cúc khi héo thì cánh hoa vẫn bám vào đài hoa . Biết rằng việc làm ấy là xúc phạm Tể tướng có thể phải chịu tội phát vãng. Quả nhiên sau một tháng Tô Đông Pha bị “ đầy ” lên phương Bắc. Ông nghĩ rằng đó là Vương An Thạch trả thù mình. Còn Vương An Thạch sau khi gửi “ trát ” đi rồi, ông lại “ trát ” tiếp cho các quan chức địa phương phải thật chu đáo với Tô Đông Pha tiên sinh như bậc đại khách.
    Đến phương Bắc, Tô Đông Pha được thả sức du ngoạn và được từ quan chí dân tiếp đón nồng nhiệt. Một lần xuống vùng quê nọ, Tô Đông Pha bỗng nghe tiếng chim lạ hót véo von. Nhà thơ hỏi chim gì hót hay vậy ? Những người dân trả lời: đó là tiếng hót của chim minh nguyệt. Lần khác Tô Đông Pha thấy một loài sâu lạ nằm cuộn mình giữa bông hoa. Nhà thơ hỏi sâu gì ? Người dân bảo: đó là sâu hoàng khuyển. Ông giật mình đập tay vào trán thở dài, nhận thấy mình dốt. Thì ra có lòai chim minh nguyệt và lòai sâu hoàng khuyển. Ông tự sỉ vả mình chỉ vì sự ngu dốt không hiểu hết được ý thơ của Vương An Thạch và do tự phụ mà đã “ biên tập ” thô bạo làm hỏng mất bài thơ hay của Tể tướng.
   Vào một chiều mùa đông, ngồi trong nhà nhìn ra ngoài trời tuyết trắng xoá bay và dưới vườn những cánh hoa cúc rụng tơi tả. Nhà thơ lại giật mình đập tay vào trán thở dài chua xót nhận ra rằng hoa cúc có rụng. Nghĩ tới thái độ điềm tĩnh và nhân ái độ lượng của Vương An Thạch, lại thấy mình được quan chức địa phương tiếp đón như thượng khách, được du ngoạn khắp vùng thiên nhiên trù phú nhưng cũng rất khắc nghiệt tận phương Bắc xa xôi mà chưa bao giờ đặt chân đến, Tô Đông Pha bỗng nhận ra không phải Tể tướng “ đầy ” mình, mà chính là ông tạo điều kiện cho mình đi thực tế để có thêm hiểu biết và vốn sống. Trong lòng rất thấm thía sự biết ơn và ân hận, liền viết ngay thư về nhận lỗi v      Vương Bột tự Tử An, người Giang Châu ( Trung Quốc ) mười tuổi đã đọc thiên kinh vạn quyển, mười ba tuổi hạ bút thành thơ nổi danh khắp thiên hạ, cùng với Dương Quýnh, Lư Chiển Lân và Lạc Tân Vương họp thành “ Sơ Đường tứ kiệt ”. Có lần ông dâng vua Đường Cao Tông bài “ Thu cảm” của mình. Trong bài có câu:
“ Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng tràng thiên nhất sắc”
      Dịch là :                    
                                          “ Cô đơn ráng lẻ bay ngang
Trời thu cùng với trường giang một màu”
            Xem xong nhà vua không khen, bỏ đi. Vương Bột tức khí nhảy xuống hồ tự tử. Từ đó vào những đêm thu thanh vắng, người ta thường nghe văng vẳng tiếng Vương Bột ngâm hai câu thơ ấy vọng lên từ mặt nước.
Rồi có lần một văn nhân đi ngang qua, vào đêm thu, nghe giọng ngâm ấy liền nói: “ Lời thơ hay, nhưng thừa chữ. Nếu bỏ hai từ “dữ” và “cộng” đi thì sẽ toàn bích ”:
“ Lạc hà cô vụ tề phi
Thu thuỷ tràng thiên nhất sắc”
            Từ khi được vị văn nhân tài năng ấy “biên tập” lại câu thơ cho mình không còn ai nghe giọng ngâm của Vương Bột từ mặt hồ nước vọng lên nữa !
       Hồi làm biên tập sách văn học ở Nhà xuất bản Thanh Niên, giải phóng miền Nam được chừng một tháng, chúng tôi gấp rút tổ chức bản thảo để in một tập thơ ( nhiều tác giả ) chủ đề thống nhất đất nước. Một hôm nhà thơ T.H đích thân mang bản thảo một bài thơ ngắn, chỉ có bốn câu, đến gặp tôi. Tính ông vốn khiêm nhường ít nói. Đưa bài thơ cho tôi, giọng ông nhỏ nhẹ: “Cậu xem nếu dùng được ...”. Cùng đi còn một người bạn, trạc tuổi ông và cũng nói giọng Nam. Mời khách uống nước, tôi đọc ngay:
“ EM
Em gần gũi . Em xa xôi
Sao em như vệt chân trời trước anh
Giơ tay tưởng với được tình
Bước đi, đi mãi mà mình vẫn xa”
    
       Được người nổi tiếng như ông, nhà thơ miền Nam tập kết, viết về chủ đề thống nhất đất nước, lại đích thân mang bài đến thì thật đáng trân trọng quá. Có điều trước đây mỗi khi cộng tác với nhà xuất bản ông thường gửi cả tập, hoặc chùm thơ, sao lần này ông chỉ đưa có một bài, lại rất ngắn như thế ? Dường như đọc được ý nghĩ của tôi, nhân lúc T.H sang thăm nhà thơ Tú Sót ở phòng bên, bạn ông kể cho tôi nghe về xuất sứ bài thơ ấy...
      Năm 1954, trước khi ra miền Bắc tập kết, T.H có để lại mối tình với một thiếu nữ cùng quê tuyệt vời cả nhan sắc và đức hạnh. Họ chia tay trong nỗi buồn sâu nặng và hẹn hai năm sau đất nước tổng tuyển cử sẽ gặp lại. Nhưng rồi kẻ thù đã chà đạp Hiệp nghị Giơ-ne-vơ và nước ta bị chia cắt làm hai miền Nam - Bắc. Bao năm đằng đẵng nhớ nhung. Rồi cuộc sống không thể khác. Trong Nam thiếu nữ ấy phải kết duyên với một giáo sư Anh ngữ. Ngoài Bắc T.H cũng xây dựng với một phụ nữ xinh đẹp và nết na không kém. Nhưng tận sâu thẳm tâm hồn, nhà thơ vẫn không thể quên thiếu nữ ấy. Nỗi lòng thầm kín ông chỉ tâm sự với người bạn thân cùng tập kết. Người bạn ấy không chỉ thân với ông, mà rất thân cả với cô gái ông yêu. Đó là người cùng đến phòng tôi với ông hôm nay.
      Trở về quê hương trong không khí tràn đầy niềm vui chiến thắng. Theo sự sắp xếp của bạn, hai người tìm đến tận nhà riêng thăm cố nhân. Trong phòng khách nhỏ, ngăn cách bởi chiếc bàn dài, trên đó lọ hoa hồng tươi rất gợi cảm, T.H ngồi bên bạn, đối diện ông là thiếu phụ tuổi đã gần năm mươi nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp kiêu sa mà một thời ông say đắm, cạnh người chồng cao, gầy, lịch lãm. Chỉ bạn ông và chủ nhân trò chuyện. Ông im lặng ngắm từng bông hồng, thỉnh thoảng liếc nhìn đôi bàn tay thon nhỏ nõn nà. Cuộc gặp sau hơn hai mươi năm xa cách khiến nhà thơ vô cùng xúc động. Ngay đêm ấy ông viết bài thơ này. Bài thơ hay mà sâu sắc: “ Em gần gũi . Em xa xôi” - gần lắm, chỉ cách nhau cái bàn nhỏ và những bông hồng. Nhưng xa cách muôn trùng. Bởi:“ Em” bây giờ đã thuộc người khác rồi. “Sao em như vệt chân trời trước anh” – Em vẫn đẹp rực rỡ như áng mây chiều dát vàng. Nhưng tiếc thay em chỉ là “đường chân trời”, nhìn thấy đấy mà không thể tới được.“ Giơ tay tưởng với được tình” - Chỉ chừng nửa mét, tưởng “giơ tay” là có thể “với được” nhau. Mà không. Không thể. “Đường chân trời” luôn ở phía trước, dẫu có “ bước đi, đi mãi mà mình vẫn xa” (!). Buồn quá. Thương quá. Xót xa quá. Đau khổ quá. Vì đâu ? Vì chiến tranh. Vì kẻ thù cướp nước và bán nước gây nên. Bài thơ tình mà mang giá trị tố cáo, lên án chiến tranh sâu sắc.
      Tôi quyết định dùng bài thơ này. Có điều đặc biệt là nhà thơ rất quan tâm đến cái dấu “chấm” (.) đặt ở giữa câu thứ nhất: “ Em gần gũi . Em xa xôi”. Hai lần anh điện nhắc tôi và yêu cầu được đọc “bản bông” cuối cùng trước khi in. Anh bảo tôi: “ Bỏ cái dấu chấm ấy, hoặc thay bằng dấu ngắt câu khác thì bài thơ sẽ đổ ”. Đúng là như thế. Dấu “chấm” đó giống một lưỡi gươm cắm phập giữa hai trái tim, chia cắt tình đôi lứa, xé nát cuộc sống bao gia đình, bao dòng tộc, chém ngang đất nước làm hai miền. Dấu “chấm” đặt ở vị trí ấy, và chỉ ở vị trí ấy thôi, mới đem lại hiệu quả cao nhất giá trị lên án chiến tranh. Có thấu nỗi đau mất mát mới thấy được ý nghĩa chiến thắng vĩ đại giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước .
      Rõ ràng biên tập là một nghề rất khó. Học hỏi, suy ngẫm, tu luyện suốt đời cũng chưa chắc tinh thông được. Bởi thế không thể xem thường.
 
   Đắc Trung. Nhà số 10 Ngõ 73 Giang Văn Minh, Hà Nội. ĐT: 0913236372