Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

HÀNH TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM

Vũ Thị Thanh Minh
Thứ sáu ngày 12 tháng 10 năm 2018 9:09 AM





(Đọc Trường ca “Từ Điện Biên tới biển” - Nguyễn Hưng Hải - NXB Hội Nhà văn 2018)

 


Trường ca là một thể loại thơ xa xưa nhất của dân tộc Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Nhiều trường ca ra đời trước công nguyên đến nay vẫn còn đi cùng năm tháng, rực rỡ tươi ròng. Ranh giới giữa trường ca và thơ dài rất mong manh, nếu người viết chưa hiểu hết đặc trưng cơ bản của nó. Nhà thơ Nguyễn Hưng Hải vẫn tôn trọng khuynh hướng truyền thống, qua hình thức trường ca, qua những câu chuyện về con người Việt Nam trong công cuộc chiến đấu, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, vừa bình thường, vừa phi thường, đã làm nên huyền thoại Việt Nam. Đồng thời ông luôn đổi mới tư tưởng, tư duy, sáng tạo nhiều từ ngữ độc đáo, lạ lẫm nhưng không quá sa đà vào việc sắp đặt một hệ thống ngữ văn cầu kỳ, rắc rối, tối nghĩa, khó hiểu với người đọc. Trường ca “Từ Điện Biên tới biển” viết về trận chiến Điện Biên Phủ của cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ, gian khổ nhưng anh dũng, vẻ vang, tới công cuộc xây dựng XHCN ở miền Bắc đấu tranh thống nhất đất nước, giao lưu hội nhập với thế giới của dân tộc Việt Nam. Nhà thơ không chỉ kể các sự kiện lịch sử những chiến thắng hào hùng, những con người có tên và không tên đã làm nên đất nước trong hơn nửa thế kỷ qua, mà nhà thơ đã phân tích, chứng minh, đánh giá những nguyên nhân dẫn đến thành công to lớn của dân tộc đã đạt được trong hai cuộc chiến vệ quốc vĩ đại, kể cả những điều chưa làm được của dân tộc ta trong thời kỳ đổi mới. Tất cả được nhìn dưới ánh sáng lý tưởng tiến bộ của Bác Hồ, của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, không có tư tưởng phản kháng cực đoan, phô bày sự hiểu biết của cái tôi nhỏ hẹp trong biển đời mênh mông, sôi động của cộng đồng. Ông đã dẫn dắt người đọc theo dòng lịch sử. Trận Điện Biên Phủ tháng 5/1954, tướng Giáp có chiến lược, chiến thuật, có cách đánh hoàn toàn khác với binh pháp cổ kim Đông - Tây. Theo nhà thơ, tướng Giáp vừa có tài quân sự, vừa có tâm của một người anh Cả. Câu thơ “Nô nức theo ông như lá hướng mặt trời” mang tính chất sử thi. Người đọc hình dung tướng Giáp như một tù trưởng hùng mạnh đi trước tiên phong, bộ đội và nhân dân theo ông đông như mối, như kiến, như lá đang xông lên tiêu diệt kẻ thù xâm lược, giữ gìn bản làng, đất nước. Trong trận Điện Biên Phủ trên không, đế quốc Mĩ đã bắn phá Hà Nội 12 ngày đêm. Chúng muốn biến Hà Nội trở về thời kỳ “đồ đá cũ”, nhưng chúng đã nhầm. Đảng và nhân dân Việt Nam nối tiếp truyền thống Điện Biên năm xưa, cùng tướng Giáp làm nên lịch sử, giặc Mĩ thất bại thảm hại, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán. Tác giả đã viết về sự kiện này bằng con mắt của một nhà lịch sử, một nhà báo và bằng xúc cảm của một nhà thơ. Biện pháp liệt kê đã được sử dụng triệt để, tràn đầy một niềm tự hào, kiêu hãnh về chiến thắng B52 của người Việt Nam. Đó là lời đáp trả hiệu quả nhất cho giặc Mĩ xâm lược, bắt chúng im miệng, bớt ngông cuồng, hiếu chiến. Còn tướng Giáp thì sao: “Tướng Giáp đang ở ngoài trận địa/ Tướng Giáp đang giơ lưng che cho mọi người”. Tác giả luôn sáng tạo để tìm được hai mặt đối lập: bình thường, giản dị với phi thường, vĩ đại trong con người tướng Giáp. Con người ấy bằng xương, bằng thịt đang hòa đồng với nhân dân, với chiến sĩ nhưng khi đất nước bị xâm lược, dân tộc gặp hiểm nguy, ông bỗng vụt lớn lên như một tráng sĩ, một anh hùng thần thoại “giơ lưng” làm một tấm khiên khổng lồ “che cho mọi người”. Câu thơ hay, giàu hình ảnh, giàu liên tưởng tràn đầy cảm xúc, rất cũ mà rất mới.

Hình ảnh người mẹ trong trường ca cũng được tác giả viết rất chân thật, cảm động. Hình ảnh người mẹ và những chiếc xe đạp thồ hàng lên Điện Biên năm xưa đã trở thành biểu tượng cho tinh thần yêu nước, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của dân tộc ta trong cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện. Mẹ của tác giả đã cùng các mẹ, các chị dân công, các anh đạp xe thồ gánh gạo, thồ gạo lên Điện Biên. Nhà thơ đã không viết một cách chung chung. Ông đã lựa chọn được những chi tiết tiêu biểu, những nhân vật điển hình như Bác Hồ, tướng Giáp, các anh bộ đội cụ Hồ, nhiều người đã ngã xuống mãi mãi tuổi hai mươi, những người mẹ, người chị, những chàng trai, cô gái... đã làm nên huyền thoại Việt Nam. Nhà thơ nhìn nhận được sự quyết tâm đổi mới, chống tiêu cực, tham nhũng của Đảng và Chính phủ. Toàn Đảng, toàn dân học tập và làm theo tấm gương, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu như điều Bác Hồ mong muốn. Trong công cuộc đổi mới ấy, nổi bật những tấm gương dám nghĩ, dám làm, đổi mới và sáng tạo như ông Kim Ngọc - Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, cha đẻ của khoán 10. Kim Ngọc đã làm theo lời dặn của Bác Hồ. Vẫn tiếp tục cách viết mang tính chất đối lập, nhà thơ đã dựng lên bức chân dung một người anh hùng thời đại mới, giàu tính chất sử thi: “Ông trở thành Thành Hoàng làng của ruộng đồng trong việc khoán/ Trên cánh đồng xưa cũ những hạt thóc sinh sôi/ Như ý nghĩ, cách làm của ông sinh sôi ra ánh sáng”. Đất nước Việt Nam, con người Việt Nam hiện lên trong trường ca của Nguyễn Hưng Hải đều là “Địa linh, nhân kiệt”. Con người đã nối tiếp nhau để xây dựng và bảo vệ giang sơn đời đời bền vững. Đất nước thống nhất, giang sơn liền một dải, đó là khát vọng của Bác Hồ, toàn Đảng, toàn dân. Nhà thơ khi đứng ở thành phố Hồ Chí Minh sau hơn 40 năm giải phóng, ông vẫn tưởng như mình là người lính cùng đồng đội tiến vào giải phóng Sài Gòn, tiến vào dinh Độc Lập. Nhà thơ tự hào nhớ lại những gương mặt chiến sĩ trẻ măng, những thiên thần áo vải: “Lính Trường Sơn đã rẽ mây, rẽ núi về đây... / Cuốn trôi đi bèo bọt những ê chề...”. Sài Gòn đổi mới, lòng ông lại rưng rưng trước sự mất mát, hy sinh của đồng đội, trước người mẹ già đơn côi, trước niêu cơm nhỏ bé chờ con đến héo mòn. Lương tâm, trách nhiệm của một người lính may mắn còn sống sót sau chiến trận, một nhà thơ trong thời đổi mới, hội nhập không cho phép ông quên lãng quá khứ bi hùng. Ông đã nhắc nhở thế hệ con cháu hôm nay và mai sau ghi nhớ, biết ơn công lao, những hy sinh to lớn của cha ông ta để chúng ta biết trân quý cuộc sống này: “Nếu năm ấy bại trận này/ Còn đâu có được cờ bay Sài Gòn/ Còn đâu bát ngát con đường/ Lướt xe trên mặt máu xương nghĩ gì?”. Những câu thơ sâu sắc, thấm thía đầy trăn trở, xoáy sâu vào tâm trí của người đọc, đặc biệt là thế hệ trẻ.

Nhà thơ đã dẫn dắt độc giả đi từ Điện Biên Phủ đến Sài Gòn và tới biển. Người đọc đã hiểu thêm về một hành trình của con người Việt Nam vất vả, gian truân đầy chông gai, máu xương, nhưng cũng rất huy hoàng, rực rỡ. “Đường ra biển” không chỉ mang ý nghĩa cụ thể mà nó còn là một ẩn dụ, tượng trưng cho khát vọng, ý chí của con người Việt Nam muốn vượt khỏi cái ao làng nhỏ bé để vươn ra biển lớn thế giới. Nhà thơ đã hồi ức lại cảnh đói nghèo, cơ cực xưa của làng Hùng quê mình: “Cái đói, cái nghèo ngoằn nghoèo trong ruột/ Trong những quanh co, lối hẹp làng Hùng”. Những con người ấy không có lý tưởng, không có ước mơ, không có đích đến. Đất nước đổi mới, làng biến thành phố, văn minh đã đến, nhà thơ cảm thấy hơi buồn, tiếc nuối vì truyền thống văn hóa làng quê mai một, rác thải công nghiệp làm ô nhiễm môi trường, xóm làng. Nhiều người mải mê kiếm sống, kiếm tiền quên cả họ hàng, anh em, nhưng ông không cực đoan phê phán mà nhận ra cái lợi của sự tiến bộ, đổi mới của làng quê mình trong cái chung đổi mới của mọi làng quê khác. Nhà thơ tự tin làng Hùng của mình cùng với đất nước Việt Nam đã và đang tìm đường đi ra biển, hội nhập với thế giới bằng con đường riêng của mình, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa sáng tạo học tập bè bạn, anh em. Trường ca “Từ Điện Biên tới biển” của nhà thơ Nguyễn Hưng Hải dài 183 trang với 04 trường ca: “Đường tới Điện Biên”, “Thao thức trên đồng”, “Trong cơn mưa bất chợt ở Sài Gòn”, “Đường ra biển”, có kết cấu hết sức logic, chặt chẽ. Sợi chỉ đỏ của trường ca là một hành trình xuyên suốt từ làng Hùng của tác giả đến Điện Biên Phủ, Sài Gòn, ra biển lớn trong thời gian từ giữa thế kỷ XX đến hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Tài năng của tác giả là đã làm mới những điều đã cũ, những chuyện mà nhiều người đã biết. Tác giả sử dụng hình thức thơ tự do đan xen với lục bát, nhiều từ ngữ hội thoại đời thường, từ ngữ văn chương chắt lọc, gọt giũa khiến cho tác phẩm thơ linh hoạt, không nhàm chán. Nhiều biện pháp nghệ thuật quen thuộc như: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ ngữ, liệt kê, cường điệu, câu hỏi tu từ, chuyển đổi cảm giác... được nâng cao, tô đậm lên nhiều lần nên có hiệu quả thẩm mỹ cao, hấp dẫn độc giả. Giọng thơ khi trầm bổng, khi sôi động, thắm thiết, ám ảnh độc giả. Nhiều câu thơ mang tính chất triết lý được rút ra từ sự chiêm nghiệm cuộc đời. Ông là nhà báo, nhà lịch sử, là người lính, nên những sự kiện, sự việc, con người trong chiến đấu và xây dựng được nhìn nhận chuẩn xác, chân thực. Tất cả lại được soi qua lăng kính chủ quan của một nhà thơ nên các sự vật, sự kiện, con người ấy hiện lên không khô khan, mang tính chất thông tấn, báo chí mà ngồn ngộn tươi ròng, lóng lánh muôn màu sắc, từ cuộc đời bước vào trang thơ có hình hài, tính cách. Ngôn ngữ hàm xúc, giàu hình ảnh, có nhịp điệu là đặc trưng cơ bản của thơ, của trường ca. Tác giả đã đến với quần chúng nhân dân bằng một sự sáng tạo, hình thức thơ ca truyền thống, bằng nội dung chân thật, gần gũi, cụ thể, đời thường nhưng tràn đầy chất thơ: “Trắng như mây trắng trên đầu/ Hàng bia mộ trắng một màu đau thương/ Máu xương đã lát thành đường/ Nhẹ chân thôi nhưng đau buồn chưa qua”. Đây là những câu thơ hay, xúc động và ám ảnh. Nhà thơ không chỉ viết cho riêng mình mà ông còn nói hộ tâm trạng của người đọc của du khách trở lại Điện Biên Phủ thăm chiến trường xưa. Nhà thơ đã thành công khi sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc trưng của thơ, trường ca. Nhà thơ đã xây dựng được một trường ca tổng hợp vừa giàu tính chất hiện thực, lịch sử, thời đại, vừa thấm đẫm yếu tố trữ tình, lãng mạn, tuy vậy nhiều khi ông đã tô đậm, nhấn mạnh các biện pháp nghệ thuật đó quá mức khiến cho một số đoạn thơ trở nên rườm rà, ý lặp đi lặp lại, thiếu sự cô đọng, hàm xúc.

Nhà thơ đã viết với lương tâm, trách nhiệm của một công dân, một nhà thơ, một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Hồ Chí Minh: “Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong” hoặc “Anh chị em cũng là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Trường ca “Từ Điện Biên tới biển” của nhà thơ Nguyễn Hưng Hải đã được độc giả đón nhận vì nhà thơ đã quan tâm đến vận mệnh của Đất nước, con người Việt Nam trong thời đại mới.

Địa chỉ: Vũ Thị Thanh Minh

Khu Lâm Thao, TT Lâm Thao, Lâm Thao, Phú Thọ.

ĐT: 0934 632 215

V.T.T.M