Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

VẪN CÒN THỦ LĨNH NHÂN VĂN CUỐI CÙNG

Lê Hoài Nguyên
Thứ hai ngày 21 tháng 6 năm 2010 11:07 AM

Tháng trước khi nhà thơ Hoàng Cầm mất, nhiều báo viết người thủ lĩnh cuối cùng của Nhân Văn Giai Phẩm đã ra đi.
Tôi đọc những dòng này mà hơi buồn. Bao nhiêu năm rồi những thông tin về sự kiện Nhân Văn Giai Phẩm vẫn mờ ảo, không rõ thực hư thế nào. Người ta vẫn còn phải đi tìm.
Tôi lại phải cấu ra một chút bí mật của mình tặng cho các bạn vốn yêu mến và luôn luôn chờ tin mới về các nhân vật như Phan Khôi , Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Lê Đạt , Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm…
Toàn bộ các nhân vật ở trên đã mất nhưng Hoàng Cầm chưa phải là thủ lĩnh Nhân Văn cuối cùng.
Nói như Trần Dần vẫn còn một người bay…
Ai vậy?
Người bay ấy là ai?
Hôm qua tôi vừa hỏi ông: Năm nay anh bao nhiêu tuổi? Ông trả lời: Đã qua tuổi 90. Ông là hậu duệ của một gia đình vọng tộc ở Bình Định, của một dòng họ lớn đã sinh ra Trần Quang Diệu, lại sinh ra những danh tướng khai quốc công thần của chúa Nguyễn, đã ba đời làm phò mã triều Nguyễn. Bố ông là bạn của bố thủ tướng Phạm Văn Đồng , bạn của bố nhà thơ Chế Lan Viên trên quan trường.
Sau khi đậu tú tài ông ra Hà Nội thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Đó là khóa chót với những người bạn đồng tuế như .
Cách mạng Tháng Tám 1945 nổ ra, ông trở về tham gia cướp chính quyền ở Huế. Ông cùng người bạn Từ Chi được giao vẽ cái affiche cách mạng đầu tiên treo trên cầu Tràng Tiền của thành phố Huế. Kháng chiến, ông giúp cho Hoàng Minh Chính và Đặng Việt Châu chỉ huy cảm tử quân Hà Nội tổ chức đánh sân bay Gia Lâm. Trong thời gian ở Việt Bắc, tại Khu 10 dưới sự chỉ huy của tướng Song Hào ông phụ trách công tác địch vận, giúp con hùm xám Đặng Văn Việt đánh các trận phục kích lấy lừng trên đường số 4. Sau đó ông làm báo Vui Sống của Cục Quân y với bác sĩ Từ Giấy.
Hòa bình lập lại, trở về Hà Nội ông làm việc tại Hội Mỹ thuật. Phong trào dân chủ Trăm hoa đua nở nở ra khắp các nước Xã hội chủ nghĩa, ông nhận lời làm Thư ký tòa soạn cho báo Nhân Văn của một nhóm văn nghệ sĩ cấp tiến như Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Lê Đạt… Cụ Phan Khôi nhận làm Chủ nhiệm.
Tất nhiên vai trò của một tờ báo có công sức nhiều người nhưng với người có tay nghề làm báo duy nhất trong nhóm và việc làm Thư ký tòa soạn phải nói là rất quan trọng. Lâu nay do ông im lặng mà mọi người tưởng như không có ông trong tờ Nhân Văn hoặc rộng hơn cả trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
Hàng ngày tôi phải làm mise , đăt bài, nhất là những bài trong chủ đề chính của báo. Có những bài phỏng vấn , như với Giáo su Đặng Văn Ngữ chẳng hạn là người quen biết của tôi từ khi còn ở Huế. Vì chỗ thân tình mà sau này ông bị liên lụy. làm tôi áy náy cả đời. Khi không có bài vừa ý tôi phải viết thay vào. Gần như tất cả minh họa, tranh hài của báo Nhân Văn đều do tôi vẽ.
Mặc dù là một họa sĩ nhưng ông còn có biệt tài về văn xuôi.
Các bài tiểu luận của ông thời điểm 1955- 1957 cũng như sau này đều uyên bác, sắc sảo. Trong trào lưu cách tân mạnh mẽ về mặt văn học của Nhân Văn Giai Phẩm, truyện ngắn của ông cũng như truyện ngắn của Phan Khôi, Phùng Cung có ý nghĩa hàm súc về tư tưởng, khác với lối văn xuôi trần thuật đơn giản trong kháng chiến, nó đề cập đến những vấn đề chính trị bức thiết đương thời, đã mang tính ẩn dụ đa nghĩa, làm người ta phải nghĩ ngợi.
Ông nói :
Tôi viết Những người khổng lồ là phê phán những người đảng viên đi ngược lại đường lối , làm tổn hại đến uy tín của Đảng. Đó là những người bè phái , tả khuynh, đã phạm những sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất. Còn những người khổng lồ có tim là Hồ Chí Minh và các lãnh tụ, các đảng viên chân chính khác. Những người khổng lồ muốn thực sự khổng lồ chỉ khi họ có trái tim, còn khổng lồ mà không có trái tim thì tàn ác và phá hoại ghê gớm lắm. Chủ đề đó vẫn còn có tính thời sự trong hoàn cảnh hiện nay khi còn nhiều đảng viên cán bộ nhà nước tham nhũng, vô cảm trước khó khăn của nhân dân, của đất nước.
Còn truyện ngắn Tiếng sáo tiền kiếp thì có ý nói lên tài năng của người nghệ sĩ là một phẩm chất bẩm sinh như là một nghiệp chướng, không thể bó nó, không thể thay đổi nó bằng sụ ép buộc với tư duy thực dụng thô bạo.

Cũng về văn xuôi, hơn 40 năm sau ông lại tái xuất với truyện ngắn Lụy và đoạt ngay Giải truyện ngắn hay trong năm 1997 của báo Văn Nghệ. Sau nữa ông còn cho in tiếp hai truyện Thần hoa và Nhật Lệ được coi là những truyện hay.
Những hệ lụy của vụ Nhân Văn Giai Phẩm làm cho ông phải sống trong im lặng 30 năm, mang tay nghề của một họa sĩ Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương làm bất cứ việc gì để sống. Nhưng trong những năm khó khăn  cực nhọc, ông vẫn giữ được tình yêu nghệ thuật. Ông chuyển hứng thú sáng tạo vào việc tìm tòi cách thể hiện vẻ đẹp của các danh thắng, di tích lịch sử, văn hóa đất nước bằng chất liệu tranh lụa và đã tạo nên một phong cách màu lụa riêng biệt mang made Trần Duy. Có người đã nói sự nghiệp hội họa của ông là một bảo tàng trên nền lụa.
Từ ngày đổi mới, ông được phục hồi hội tịch hội viên Hội nghệ sĩ tạo hình Việt Nam, được xem xét chỉnh lương hưu. Cuối năm 1991 Triển lãm tranh Trần Duy mở tại Nhà triễn lãm tranh 16 Ngô Quyền Hà Nội. Giới nghề nghiệp và báo chí gọi đây là cuộc tái xuất giang hồ trên nghiệp vẽ của ông. Người ta không thể ngờ được qua bao năm tháng thăng trầm, bầm dập, trên nền lụa của Trần Duy vẫn là tình yêu con người, đất nước với vẻ đẹp dịu dàng nhân ái.
Tiếp theo ông đã xuất bản bộ sách Tranh Trần Duy, bộ Tranh ký họa trên đất Pháp, các cuốn tiểu luận và văn xuôi Cảm luận nghệ thuật, Suy nghĩ về nghệ thuật.
Ở hai cuốn sách sau , cho thấy Trần Duy là người am hiểu sâu sắc văn minh phương Tây và văn minh Á Đông, có những kiến giải thuyết phục về việc kết hợp truyền thống và hiện đại trong lao động sáng tạo nghệ thuật mà chính các tác phẩm của ông là minh chứng. Ở bài Tưởng niệm Phan Khôi viết cho cuộc Hội thảo về Phan Khôi do Tạp chí Xưa và Nay tổ chức lại thấy biệt tài về thể loại khắc họa chân dung cùng với cách sống nhân tình của ông. Cuối bài là đoạn văn mang nhiều ám ảnh:
Tiếng thở dài và tiếng chép miệng của ông trong những ngày cuối cùng như còn vọng lại. Sinh thời mỗi lần ông nói đến một nỗi oan khuất nào đó của người đời, ông vẫn thường nhắc đến tiếng cóc kêu với trời.! Gió mưa là do chuyển hóa Đông – Tây của thời tiết, nhưng vẫn có người tốt bụng tin rằng : 
Trời mưa nhờ có cóc kêu.
Trở lại bối cảnh những năm 1954- 1960, với các bài tiểu luận Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ, Phấn đấu cho Trăm hoa đua nở, Góp ý kiến về phần tự do dân chủ trong Nghị quyết T.Ư lần thứ mười và hai truyện ngắn Tiếng sáo tiền kiếp, Những người khổng lồ Trần Duy không chỉ là một Thư ký tòa soạn mẫn cán, ông còn là một nhà tư tưởng cấp tiến mạnh mẽ. Chỉ có điều đáng tiếc cho những tư tưởng , những cách tân nghệ thuật của ông và những người bạn như Nguyễn Hữu Đang, Văn Cao, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Đặng Đình Hưng…đã xuất hiện quá sớm trước thời cuộc.
Còn hiện nay, ông cho biết :
Tôi còn nhiều điều muốn nói nhưng không nói được hết. Với những người trẻ cũng vậy. Tôi biết nói gì, có cần thiết không, có ích lợi gì không. Làm nghệ thuật phải học để biết mình, không biết mình không hiểu được người. Đất nước mình đã có nhiều thay đổi và sẽ còn nhiều thay đổi.

 Tháng 6- 2010