Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

ĐỪNG LÀM ĐAU NÀNG MỴ CHÂU THÊM NỮA!

Hà Văn Thùy
Thứ bẩy ngày 19 tháng 6 năm 2010 5:32 AM
 
Không biết đã bao lần, mỗi khi quốc gia hữu sự, những người nông nổi lại đưa nàng Mỵ Châu ra làm bung xung để trút vào đó nỗi hận của mình. Trước đây là Tố Hữu:

Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu.
Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm vực sâu!
Hôm nay là ông Chinh Văn:
một nghìn năm đô hộ
nay đổi tám chữ vàng
chẳng hận thằng Trọng Thủy
chỉ trách nàng Mỵ Châu
                     (tráo trở*)
 
Những dòng chữ như thế không chỉ thể hiện tri thức lịch sử lệch lạc mà còn phản ánh óc thẩm văn thô thiển của người viết. Một nỗi nhục của người Việt vì không hiểu nổi lịch sử và văn hóa của tôc Việt!
Qua bài viết này, tôi muốn rằng, những ai còn nghĩ như vậy xin học lại lịch sử và đừng làm oan, làm đau thêm nàng Mỵ Châu tội nghiệp!
*
I. Thục Phán là ai?
Trước hết, cần nhìn lại lịch sử.
Tuy đặt ra “Kỷ nhà Thục” nhưng về nhân thân của Thục Phán, sách Toàn thư chỉ ghi vắn tắt: “Họ Thục, tên húy là Phán, người Ba Thục, ở ngôi 50 năm, đóng đô ở Phong Khê (nay là thành Cổ Loa).” Do không hiểu được những dòng chữ quá cô đọng này, sách Việt sử thông giám cương mục viết: “Nước Thục từ năm thứ 5 đời Thận Tĩnh vương nhà Chu (316 TCN) đã bị nước Tần diệt rồi, làm gì còn vua nữa? Huống chi từ Thục đến Văn Lang còn có đất Kiện Vi (nay thuộc Vân Nam), đất Dạ Lang, Cùng, Túc, Nhiễm Mang… cách nhau hàng hai ba ngàn dặm, có lẽ nào Thục vượt qua được các nước ấy mà sang đánh Văn Lang?... Hoặc giả ngoài cõi Tây Bắc giáp với nước Văn Lang còn có họ Thục khác, mà sử cũ (Toàn thư) nhận là Thục vương chăng (ĐVSKTT, tập 1, trang 179. NXB Văn hóa thông tin-2000).
Mối nghi ngờ của Cương mục đã gợi cho một vài người đưa ra ý tưởng cho rằng họ Thục là thủ lĩnh của nhóm Âu Việt hay Tây Âu vùng Cao Bằng. Một vài người khác phủ định nguồn gốc Ba Thục rồi dựa vào địa danh trong truyền thuyết để cho rằng họ Thục là chủ của vùng Yên Bái-Đào Thịnh: “Trước đây có nhận định cho rằng, Thục Phán là người của nước Ba Thục - một quốc gia cổ đại của Trung Hoa thuộc vùng Tứ Xuyên (Trung Quốc). Tuy nhiên, với khoảng cách quá xa như vậy, Thục Phán không thể nào cất quân xa đến 500 - 700km hiểm trở để đánh nhau với Hùng Vương ở tận Phú Thọ. Vì vậy, nguồn gốc Ba Thục của Thục Phán bị loại trừ.”
“Những năm 70 của thế kỷ XX, có ý kiến cho rằng, Thục Phán quê ở Cao Bằng, vì trong truyền thuyết Chín chúa tranh vua lưu hành ở đây, nói Thục Phán xuất phát từ Cao Bằng cất quân đánh Hùng Vương. Nhưng các địa danh được nhắc đến trong truyền thuyết đều là những địa danh thuộc vùng Yên Bái - Nghĩa Lộ, nơi mà cách đây hơn nửa thế kỷ, giới khảo cổ học phát hiện nhiều di vật văn hóa đồng thau nổi tiếng. Tiêu biểu là thạp đồng ở Đào Thịnh, mà thạp đồng như là hiện vật tượng trưng cho những thế lực hùng mạnh nhất lúc bấy giờ.” “Các địa danh ở Cổ Loa là những bản sao của địa danh ở Yên Bái, đó là việc Thục Phán và cư dân Âu Lạc đã từ Yên Bái về Cổ Loa định cư, mang theo về đây địa danh từ quê hương phát tích của An Dương Vương và Âu Lạc.”**
Tuy nhiên, An Dương Vương là sự kiện lớn, nếu không gắn nó với lịch sử chung của khu vực mà chỉ bó hẹp trong những truyền thuyết mang tính địa phương sẽ thiếu đi cái nhìn toàn cục. Phải nhìn Thục Phán - An Dương Vương trong bối cảnh dân cư, văn hóa chính trị chung của vùng.
Nay ta có những cứ liệu chắc chắn rằng, khoảng 40.000 năm trước, người Việt cổ gồm bốn chủng là Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negretoid từ Việt Nam di cư lên khai phá Trung Hoa. Hành lang Tây Bắc Việt Nam  Vân Nam  Tứ Xuyên là con đường huyết mạch đưa văn hóa Hòa Bình lên phía Bắc. Khoảng 2600 năm TCN, đồng thời với nước của Đế Lai ở lưu vực Hoàng Hà, Xích Quỷ của Lạc Long Quân ở lưu vực Dương Tử là nước Thục ở phía Tây. Sách Toàn thư nói rõ chuyện này. Đến nay, nhờ các dữ liệu di truyền học, ta biết chắc rằng, cư dân các quốc gia, các vùng đất trên đều là người Việt. Do môi trường sống thuận lợi, lại tiếp thu sớm văn hóa Hòa Bình, vùng Ba Thục trở thành một trong những trung tâm kinh tế văn hóa hàng đầu của các tộc Việt trên đất Trung Quốc. Khảo cổ học phát hiện những công cụ đồng thau sớm chỉ sau Phùng Nguyên và rất tinh xảo cùng với những thành quách. Nước Thục có thể mất một phần lãnh thổ vào thời Thương, Chu nhưng vẫn độc lập, không thần phục nhà Chu. Đến thời Tần, nước Thục bị diệt. Giáo sư Nguyễn Đăng Thục trong bài Bốn nghìn năm văn hiến (2) viết:                                                                                          
- Theo “Hoa dương quốc chí” q.3, Thục chí: “Vua Vũ nhà Chu đánh vua Trụ cùng với nước Thục. Đất Thục phía đông liền với nước Ba, phía Nam giáp với nước Việt, phía bắc phân giới với nước Tần, phía Tây gồm núi Ngọ và núi Phồn, đất ấy xưng là Thiên Phủ”. Nước Thục giao thông với bên ngoài rất phát đạt. Sự giao thông ấy lấy Điền (Vân Nam) và đất Kiềm làm chủ yếu, mà sự mở mang đất Vân Nam lại hướng vào nước Thục làm trọng tâm để buôn bán mậu dịch. Vân Nam với Bắc Việt liền tiếp với nhau, từ thời cổ xưa hai miền giao thông rất thịnh, cho nên thời cổ sự giao thông giữa Tứ Xuyên với Bắc Việt chắc hẳn là tấp nập. Bấy giờ miền hạ lưu sông Trường Giang chưa có ảnh hưởng khai hóa của Hán tộc, mãi đến thời Chiến quốc (dân mà người Hán gọi là man di phía Tây trong vùng Tứ Xuyên – Bắc Việt, và “Tây nam di ở Điền, Kiềm (Vân Nam, Quý Châu ngày nay), nước Tần, nước Sở đang đua tranh vũ lực để thôn tính, kết quả là vua nước Sở Trang Kiêu làm vua Điền (Vân Nam). Nước Tần chiếm lấy nước Ba, nước Thục, nước Kiềm tức Quý Châu.”
Theo Hoa dương quốc chí q.1, Ba chí viết: “Chu Thuận (Thuyến) làm vua 5 năm (316 tr.cn) vua nước Thục đánh chúa Tư, chúa Tư chạy vào nước Ba, nước Ba xin nước Tàu cứu. Vua Tần Huệ Văn sai Trương Nghi, Tư Mã Thác đi cứu nước Tư, Ba, bèn đánh nước Thục mà diệt đi.”
 “Hoa dương quốc chí” q.3 mục Thục chí viết: Chu Thuận Tĩnh làm vua 5 năm, quan đại phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô uý Mặc cùng theo đường Thạch Ngưu đánh nước Thục. Vua nước Thục từ đất Hạ Manh chống cự, thất bại, vua chạy trốn đến đất Vũ Dương bị quân Tần giết hại. Tướng, Phó cùng Thái tử rút lui về Bàng Hương, chết ở dưới núi Bạch Lộc, họ Khai Minh mới hết, làm vua nước Thục 22 đời.”
Lã Sĩ Bằng trong “Bắc thuộc thời kỳ đích Việt Nam” suy diễn sử kiện trên đây như sau: “Xét về việc vua Thục bị ở đất Vũ Dương, ngày nay là Bái Sơn vị trí ở phía nam Thành đô, tên bờ sông Manh khoảng giữa đến như Bàng hương núi Bạch Lộc ngày nay ở đâu thì không thể tìm xét, chỉ nên hiểu là ở phía nam núi Bành, thế nhân vì quân Tần từ phía bắc xuống miền Nam, tập đoàn người Thục chống đối quân Tần bị thua mà hướng phương Nam để thoát lui vậy. Từ đấy về sau 59 năm có lịch sử đích thực là vua Thục Phán làm vua Việt. Chúng ta có thể suy định rằng vua Thục bị bại ở Vũ Dương, quan Tướng, Phó, Thái tử đều chết ở núi Bạch Lộc, sau đấy đảng vua Thục còn lại mới suy tôn con hay cháu nhà vua lên tiếp tục chạy về phương Nam, theo hạ lưu sông Manh tiến vào khu đất tiếp giáp giữa Qúy Châu và Vân Nam thuộc phạm vi thế lực người Sở… Nhưng khu đất giao tiếp giữa Quý Châu (Kiềm) và Vân Nam (Điền) thời Hán là Trường Kha là đất thuỷ lão nghèo nàn. Thục vốn là nước Thiên phủ, người Thục khó ở lâu tại đất ấy được, và thế lực quân Tần đang rất mạnh, dòng dõi vua Thục hết hy vọng khôi phục lại đất cũ mới tìm phát triển về phương Nam tiến vào đất bình nguyên Bắc Việt, khí hậu ôn hòa, nông sản phì nhiêu, cùng với Hùng Vương tranh chiến, nhiều phen thất bại đến đời Chu Bảo Vương năm 518 (tr.cn 257) mới chinh phục được Văn Lang.”  “Từ Chu Thuận Tĩnh làm vua 5 năm (316 tr. Tây nguyên) nước Thục mất về nước Tần, cho đến Chu Báo làm vua 58 năm (257 tr. Tây nguyên) An Dương Vương là Thục Phán xưng vua ở Việt nam, thời gian cách nhau là 59 năm. Trong khoảng thời gian ấy, người dân nước Thục chịu sự áp bách của thế lực quân sự nhà Tần, tập đoàn chống đối quân Tần dần dần đi xuống phương Nam đi vào bắc bộ Việt nam, cùng với vua Hùng Vương nuớc Văn lang đánh nhau tranh dành. Lúc đầu vì thế lực còn yếu, luôn luôn bị thua, mãi sau mới chinh phục được Văn lang. Và việc An Dương Vương từ nước Thục đi vào nước Việt, thì sách sử xưa của Tầu và Việt đều không ghi chép lịch trình tiến triển, nhưng cuộc chiến tranh giữa nước Tần và nước Thục có thể tìm thấy dấu vết ở cuộc thiên di về phương Nam của tập đoàn vương thất nước Thục chống đối với nhà Tần.” “Sự hiện diện của Bách bộc do Thục An Dương Vương với tập đoàn nhà Thục từ Tứ xuyên đi xuống qua Qúy Châu và Vân nam phía Tây Bắc việt ngày nay mà di tích là kiểu thành Cổ loa vốn của nước Ba thục.” (2)
Từ các tư liệu lịch sử ghi lại, ta biết, Thục là nhà nước độc lập với Văn Lang. Khối dân của cha con Thục Phán là ngoại bang nhưng đồng tộc với người Việt của Hùng Vương. Điều này phù hợp với sử sách và truyền thuyết nói họ là nhóm Âu Việt. Nhóm Âu Việt này sống ở Tây Bắc khoảng nửa thế kỷ. Những xung đột dài dài với Hùng Vương còn được ghi nhận trong truyền thuyết. Vì vậy, ta có thể đoán là nhóm người Thục không gây nên căng thẳng sắc tộc với người địa phương mà nhờ sự khôn khéo của mình, họ đã thu phục được dân địa phương, tạo sức mạnh quân sự cho mình đồng thời gây ảnh hưởng chính trị, tinh thần tới khối dân Việt của Hùng Vương. Điều này giải thích vì sao, cuộc xâm lăng chiếm đoạt ngôi vị của Thục Phán diễn ra khá êm xuôi, không để lại vết hằn trong lịch sử. Như vậy là, trong khoảng nửa thế kỷ, từ khi nước Thục bị diệt, hậu duệ nhà Thục trốn nạn diệt vong, xuống phương Nam, theo con đường Bắc tiến của tổ tiên xưa và con đường thương mại truyền thống. Năm bảy trăm cây số không phải là quãng cách mà đội quan quân nhỏ không thể vượt qua để tìm đường sống. Tôi đoán rằng, vua Hùng chẳng thú vị gì chuyện một binh đội quan quân của nước khác đến ở nhờ. Có điều, không dễ đuổi một đội quân đã cùng đường. Và cuộc chiến giữa hai bên là không thể tránh. Ta cũng biết, để chiến thắng Hùng Duệ Vương, nhà Thục phải mất hai đời, từ Thục Chế (cha) tới con là Thục Phán mới hoàn thành.
Ký ức dân gian ghi nhận nhiều sự kiện về cuộc chiến giữa vua Hùng và giặc Thục tại vùng Vĩnh Yên, Phúc Yên, địa bàn của bộ Văn Lang xưa. Đó là truyện Hùng Lộc đại vương bị chặt đứt đầu, đã lấy vải buộc cổ lại để tiếp tục chiến đấu. Khi giặc rút thì ngã xuống chết, mối đùn lên thành đống, dân lập đền thờ. Truyện Đinh Công Tuấn đánh nhau với quân Thục Phán, tới thế cùng, nhảy xuống sông tự vẫn. Hiện ở vùng này còn ngôi miếu thờ vợ chồng thầy giáo hy sinh trong việc chống lại quân Thục.
Từ sự kiện lịch sử có thực đó, ta có thể đặt câu hỏi: vì sao người Lạc Việt dễ dàng chấp nhận cuộc xâm lăng của ngoại bang, xóa bỏ triều đại Hùng Vương kéo dài hàng nghìn năm, gắn bó với họ sâu nặng trong nhiều truyền thuyết tạo rường cột của văn hóa Lạc Việt? Theo thiển ý, có thể là, do trị vì quá lâu, dòng Hùng Vương suy đồi, không đáp ứng nổi những đòi hỏi của cuộc sống. Trước những biến chuyển mới của thời đại, cần phương cách lãnh đạo mới. Thục Phán có lẽ là người đáp ứng được đòi hỏi này. Vì vậy, khi cuộc xâm lăng xảy ra, sức chống trả của người Lạc Việt không thật dữ dội. Và sau khi nắm quyền, với tài năng của mình, ông khéo léo lãnh đạo dân chúng Việt qua các lạc hầu lạc tướng, tạo sức mạnh trong việc dời đô về Cổ Loa và chuẩn bị chống quân Tần.
II. Triệu Đà là ai?
1. Những quan niệm truyền thống
Từ khi giành lại quyền tự chủ, các triều đại Việt đều đề cao vai trò lịch sử của Triệu Ðà. Nhà Trần phong ông là Khai thiên thế đạo thánh vũ thần triết hoàng đế. Ðại Việt sử ký toàn thư ghi: Họ Triệu nhân lúc nhà Tần suy loạn, giết trưởng lại nhà Tần, chiếm giữ đất Lĩnh Nam xưng đế, đòi ngang với nhà Hán, hưởng nước truyền ngôi 100 năm mới mất, cũng là bậc vua anh hùng. Sử gia Lê Văn Hưu viết: Thế mới biết, người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là lão phu, mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Trong An Nam chí lược, Lê Tắc ghi: Triệu Ðà làm vua Nam Việt, mới lấy thi lễ giáo hóa nhân dân một ít. Ðiều này chứng tỏ Triệu Ðà là người mang sự học đến nước ta từ trước chứ không phải Sĩ Nhiếp. Ðến nhà Lê, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết: “Trải Triệu, Ðinh, Lý, Trần nối đời dựng nước.” Như vậy, Nguyễn Trãi thừa nhận Triệu Ðà là ông vua đầu tiên của nước ta từ thời có sử. Cuối thời Nguyễn, trong Việt Nam sử lược, học giả Trần Trọng Kim vẫn chép nhà Triệu là chính thống.
Người đầu tiên đánh giá lại vai trò của nhà Triệu là Ngô Thì Sĩ, cuối đời Hậu Lê. Trong Việt sử tiêu án, ông khẳng định nước Nam Việt là ngoại bang, Triệu Đà là kẻ ngoại tộc:
“Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi phát ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc quận, đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta. Nếu coi là đã làm vua nước Việt, mà đến ở cai trị nước ta, thì sau đó có Lâm Sĩ Hoằng khởi ở đất Bàn Dương, Hưu Nghiễm khởi ở Quảng Châu, đều xưng là Nam Việt Vương, cũng cho theo Quốc kỷ được ư? Triệu Đà kiêm tính Giao Châu, cũng như Ngụy kiêm tính nước Thục, nếu sử nước Thục có thể đưa Ngụy tiếp theo Lưu Thiện, thì quốc sử ta cũng có thể đưa Triệu tiếp theo An Dương. Không thế, thì xin theo lệ ngoại thuộc để phân biệt với nội thuộc vậy.”  Và ông kết luận: “Nước ta bị nội thuộc vào nước Tàu từ đời Hán đến Đường, truy nguyên thủ họa chả Triệu Đà thì còn ai nữa? Huống chi Triệu Đà chia nước ta làm quận huyện, duy chỉ biết biên số thổ địa, thu thuế má, cung cấp ngọc bích cho nhà Hán, đầy túi tham của Lục Giả thôi. Đến như việc xướng ra cơ nghiệp đế vương trước tiên, tán tụng Triệu Đà có công to, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép như thế, Ngô Sĩ Liên theo cách chép hẹp hòi ấy, không biết thay đổi, đến như bài Tổng luận sử của Lê Tung, thơ vịnh sử của Đặng Minh Khiêm thay nhau mà tán tụng, cho Triệu Đà là bậc thánh đế của nước ta. Qua hàng nghìn năm mà không ai cải chính lại vì thế mà tôi phải biện bạch kỹ càng.”
Học giả Đào Duy Anh, trong cuốn Lịch sử cổ đại Việt Nam, cũng phê phán sử cũ và coi nhà Triệu là mở đầu thời kỳ Bắc thuộc. Đào Duy Anh là học giả lớn, là người khai sinh nền lịch sử macxit ở Việt Nam. Học trò của ông trở thành những cán bộ rường cột của sử học hiện đại nên ảnh hưởng của ông rất lớn. Ý kiến của ông thành quan điểm chính thống hiện nay.
 2. Quan niệm của chúng tôi
Là lớp người sinh cùng Cách mạng tháng Tám, ngay sau hòa bình 1954 được học Sử Việt Nam với nhà Triệu giữ vai trò mở đầu lịch sử dân tộc. Sau này thấy sách giáo khoa thay đổi, coi Triệu Đà là kẻ xâm lược, thậm chí, Nguyễn Trãi bị sửa chữa: “Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước” được thay bằng “Trải Đinh, Lê, Lý, Trần…” chúng tôi không khỏi bức xúc. Chính nỗi bức xúc này buộc chúng tôi tự tìm câu trả lời cho thắc mắc của mình.
a. Dựa trên tài liệu truyền thống
Trong Sử ký, Tư Mã Thiên viết: Vua Nam Việt họ Triệu tên là Ðà, người huyện Chân Ðịnh, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt. Như thế đã mười ba năm. Khi nhà Tần bị tiêu diệt, Ðà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ vương. Ðà bèn tự tôn làm Nam Việt Vũ đế, đem quân đánh các ấp ở biên giới quận Trường Sa. Ðà nhân đó dùng uy lực uy hiếp biên giới, đem của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc mình. Ðất đai của Ðà chiều ngang có hơn vạn đặm, Ðà bèn đi xe mui lụa màu vàng, cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là chế, chẳng kém gì Trung Quốc. Ðến thời Hiếu Cảnh, Ðà vẫn xưng thần, sai người vào chầu. Nhưng trong nước Nam Việt thì vẫn trộm xưng danh hiệu đế như cũ; còn khi sai sứ sang thiên tử thì xưng vương, triều kiến thỉnh mệnh như các chư hầu.
Như vậy, cuốn sử quan trọng nhất của Trung Quốc vẽ lên nhà Triệu lừng lững một cõi biên thùy, là quốc gia độc lập, ngang ngửa với nhà Hán. Triệu Ðà làm vua 70 năm (từ 207 đến 137 TCN), tiếp đó cháu chắt ông truyền 4 đời trị vì 27 năm nữa, đến năm 111 TCN nước Nam Việt vào tay nhà Hán. Nhà Triệu kéo dài được 97 năm. Nói: “Nước ta bị nội thuộc vào nước Tàu từ đời Hán đến Đường, truy nguyên thủ họa chả Triệu Đà thì còn ai nữa?” là sự áp đặt, gán ghép vô căn cứ. Trong  bối cảnh lịch sử lúc đó, một nước nhỏ như Âu Lạc khó mà trụ được trước sức tấn công của nhà Hán mạnh. Nếu không có Nam Việt của Triệu Đà, Âu Lạc bị xâm lăng sớm hơn là điều chắc chắn.
Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Ðôn ghi: Ðem số hộ khẩu chép ở sách Hán chí mà so thì nước ta được ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, hơn 20 huyện, đời Hán số hộ cộng là 143.743 nhà, số khẩu cộng là 981.827 người. Thông tính cả hai tỉnh ấy (Quảng Ðông, Quảng Tây) ở đời Hán số hộ chỉ là 71.805 nhà, khẩu chỉ là 389.672 người. Như thế nước ta ở đời Hán thì số hộ gấp đôi mà số khẩu gần gấp ba. Như vậy, tuy xưng vương ở Phiên Ngung nhưng số dân của Triệu ít. Trong khi đó ở phía Nam, nước Âu Lạc của An Dương vương khá mạnh, số dân gần gấp 3 số dân của Triệu. Bên cạnh Âu Lạc còn có các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc luôn tranh chấp. Nước Âu Lạc tuy lớn nhất trong khu vực nhưng cũng quá nhỏ so với nhà nước phương Bắc. Nếu nhà Tần không sụp đổ đúng thời điểm đó, có nhiều khả năng tằm ăn dâu, sẽ thôn tính đất Nam Việt. Một khả năng khác: trong cuộc chinh phạt Nam Việt trị tội Triệu Ðà xưng đế, nếu tướng Lâm Lư hầu thắng, nhà Hán chiếm Nam Việt ngay lúc đó, có phần chắc Nam Việt cũng bị đồng hóa như các dòng Bách Việt khác. Khả năng thứ ba: nếu Triệu Ðà theo nhà Hán, sau khi thôn tính Âu Lạc, sáp nhập Nam Việt vào Hán thì có phần chắc là Nam Việt bị xóa sổ trên bản đồ!
Ðúng là Triệu Ðà dùng thủ đoạn chiếm nước Âu Lạc nhưng ý nghĩa của sự kiện lịch sử này cần phải bàn. Thời đó, sự liên kết trong mỗi quốc gia còn lỏng lẻo và biên giới từng quốc gia chưa ổn định, đang trong xu hướng sáp nhập tập trung thành những quốc gia đủ mạnh để tồn tại. Việc thôn tính các nước Yên, Hàn, Tề, Triệu... để thành nước Tần không phải hành động xâm lược mà là thống nhất các tiểu quốc của nước Chu cũ. Tương tự vậy, việc Triệu Ðà chiếm Âu Lạc cũng không thể coi là xâm lược mà là hành động thống nhất những nhóm, những tiểu quốc người Việt lại thành một nước Việt lớn hơn, ngăn chặn hành động thôn tính của kẻ mạnh ở phương Bắc. Ðiều quan trọng là họ Triệu đã duy trì được nước Nam Việt thống nhất trong một thế kỷ, vừa xây dựng trong hòa bình vừa kiên cường chống ngoại xâm. Chính điều này đã tạo nên và củng cố tinh thần quốc gia của người Việt. Ðây là di sản quý báu nhất họ Triệu để lại cho người Việt. Chính gần một thế kỷ tồn tại của quốc gia Nam Việt giúp cho người Âu Lạc không bị người Hán đồng hóa và sau này có dịp lại vùng lên trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Năm 43, khi hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, nhân dân Nam Việt cũ từ miền Trung, miền Bắc Việt Nam đến vùng Lưỡng Quảng sang tận Hải Nam đều hưởng ứng... Sau này, khi qua khảo sát ở vùng đất phía Nam Trung Quốc, bác sĩ Trần Ðại Sĩ thống kê được hơn 200 địa điểm có đền thờ hai Bà Trưng. Không thể có việc này nếu không có thời kỳ Nam Việt.
Các sử gia như Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên... đã nhìn nhận công bằng và Nguyễn Trãi đánh giá họ Triệu một cách chuẩn mực. Sử gia Ngô Thì Sĩ tỏ ra bất cập khi viết: Triệu Ðà chia nước ta làm quận huyện, duy chỉ biết biên số thổ địa, thu thuế má, cung cấp ngọc bích cho nhà Hán, đầy túi tham của Lục Giả”. So với một quốc gia còn trong tình trạng sơ khai với những lạc hầu, lạc tướng cai quản từng bộ lạc thì một quốc gia có quận huyện, biên số thổ địa là bước nhảy vọt về tổ chức hành chính, về khoa học quản lý xã hội. Còn nói thu thuế má cung cấp ngọc bích cho nhà Hán cũng không đúng. Suốt 70 năm Triệu Ðà làm vua, quan hệ Việt, Hán khá lỏng lẻo. Biết Triệu xưng đế mà nhà Hán đành chịu, không những thế còn phải lấy lòng bằng cách giữ gìn mồ mả tổ tiên của Triệu, cho thân nhân ông làm quan. Trong mối quan hệ như vậy, cống phẩm của Triệu Ðà chỉ có nghĩa tượng trưng để xác nhận sự thần phục trên danh nghĩa nên không thể “làm đầy túi tham của Lục Giả”. Lục Giả không bằng cấp, chức vị nên thường gọi là Lục sinh, là người hiền, có câu nói nổi tiếng: “Thiên tử dĩ dân vi thiên, dân dĩ thực vi thiên.” Một kẻ sĩ như thế không thể là người tham lam! Rõ ràng, chứng lý đưa ra để kết tội Triệu Ðà là không thuyết phục. Nhưng vì sao Ngô Thì Sĩ lại có cái nhìn việc thiếu chuẩn mực như vậy? Chỉ có thể là, với tinh thần dân tộc hẹp hòi, cùng với hiểu biết lịch sử hạn chế, ông không chịu một người Hán làm vua nước Việt! Trong lịch sử thế giới, một người nước này làm vua nước khác không hiếm. Ngay bên chúng ta, cuối thế kỷ XVIII,  Trịnh Quốc Anh, con một người nhà Minh tỵ nạn sang nước Xiêm, lãnh đạo người Xiêm đánh đuổi quân xâm lược Miến Điện, được tôn làm vua. Họ Trịnh (Taksin) sau thành họ lớn của người Thái. Người Thái không bao giờ nghi ngờ vai trò chính thống của dòng họ này!
b. Dựa vào tư liệu lịch sử mới
Cho đến nay, khi thảo luận về giai đoạn mở đầu của dân tộc Việt, các sử gia chỉ có những tài liệu trong cổ thư Trung Hoa, sách của một số học giả Pháp thời thuộc địa cùng những tư liệu khảo cổ, cố nhân chủng học chưa đầy đủ. Một nghịch lý mang tính duy tâm chủ quan và không thiếu khôi hài là trong khi phán xét những “hành động lịch sử” của tộc người hay một nhân vật nào đó mà người ta chưa hiểu họ là ai, được hình thành như thế nào?! Rất mừng là, sang thế kỷ này, với công trình di truyền học lập bản đồ gen người, khoa học nhân loại cho chúng ta những tư liệu để có cái nhìn thấu đáo hơn đối với lịch sử Đông Á.
Đựa trên truyền thuyết Lạc Long Quân, đựa trên sự phân bố trống đồng ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc, dựa vào xác định gen dân cư Văn Lang, ta có cơ sở để tin rằng, trước cuộc xâm lăng của Thục Phán, Văn Lang của các Vua Hùng là quốc gia rộng lớn, biên giới phía tây giáp Ba Thục, với nhiều chủng tộc, trong đó người Mongoloid phương Nam đa số. Khi Thục Phán chiếm ngôi Vua Hùng, nước Văn Lang tan rã. Ở phía nam Dương Tử, các bộ lạc trở nên tự trị đưới quyền các thủ lĩnh khu vực, có một số nơi các thủ lĩnh xưng vương, thành lập quốc gia riêng.
Tần Thủy Hoàng chiếm vùng Kinh, Dương của Văn Lang cũ và đưa dân tới ở xen với người Việt. Trong đội quân của nhà Tần, có Triệu Đà. Triệu Đà người Chân Định nước Triệu. Nhưng như trình bày trên, nước Triệu nguyên là dân cư Bách Việt, bị nhà Tần chiếm ít năm trước. Là quan chức nhà Tần nhưng Triệu Đà là người Việt chính gốc, nếu nói theo ngôn ngữ hôm nay thì ông là “người Tần gốc Việt”. Vì vậy, khi nhà Tần không còn, mặc nhiên ông trở lại làm dân Việt tự do. Việc ông làm vua của người Nam Việt là hoàn toàn chính thống.
Khi viết: “Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam,” “Triệu Đà kiêm tính Giao Châu, cũng như Ngụy kiêm tính nước Thục, nếu sử nước Thục có thể đưa Ngụy tiếp theo Lưu Thiện, thì quốc sử ta cũng có thể đưa Triệu tiếp theo An Dương,” Ngô Thì Sĩ tỏ ra bất cập. Ông bỏ qua tính lịch đại của địa danh. Những địa danh trên do nhà Tần đặt. Tuy chưa từng chiếm được Âu Lạc nhưng nhà Tần cũng chia nước ta thành những quận huyện. Ở đây, sử gia cuối triều Lê quá nệ vào tư liệu Trung Hoa nên sai lầm khi phủ nhận Nam Hải, Quế Lâm là đất Việt. Trước khi bị xâm lăng chia thành quận huyện thì đó thuộc Văn Lang của Vua Hùng, hoàn toàn do người Việt cư trú và quản trị. Vì vậy, khi sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt, Triệu Đà khôi phục nước cũ của các Vua Hùng. Sử gia này cũng tỏ ra khập khiễng khi so sánh việc Ngụy chiếm Thục với Triệu Đà sáp nhập Ấu Lạc. Suốt trong lịch sử dài, Thục là quốc gia độc lập với nhà Chu, nhà Tần. Vì vậy việc nhà Ngụy thôn tính Thục là xâm lăng. Trong khi đó Âu Lạc và Nam Việt là những bộ phận của một quốc gia thống nhất. Do hoàn cảnh lịch sử bị chia cắt, nay xóa bỏ cát cứ, khôi phục quốc gia cũ sao lại gọi là xâm lăng?
c. Dựa trên lịch sử so sánh
Một quan niệm về lịch sử muốn khoa học và thuyết phục, trước hết phải đạt được sự nhất quán. Một câu hỏi đặt ra cho các nhà sử học Việt Nam: Nếu Triệu Đà là xâm lược thì việc Thục Phán chiếm ngôi của vua Hùng là gì? Trên tất cả mọi ý nghĩa, đây hoàn toàn là cuộc xâm lăng! Tại sao trong sử Việt không có dòng nào nói về sự thật này?! Trong khi đó, suy xét tới cùng về Triệu Đà, ta thấy ông là người gốc Việt, diệt An Dương vương là triều đại ngoại bang xâm lăng  tiếm đoạt ngôi vị để thống nhất lãnh thổ Việt, xây dựng quốc gia tự chủ gần 100 năm thì lại bị coi là xâm lược? Chính sự mâu thuẫn, bất nhất này cho thấy có chuyện chưa ổn của ngành sử khi đánh giá nhà Triệu.
III. Trở về với lịch sử đích thực
Từ phân tích trên, ta thấy, về bản chất thì việc Thục Phán cướp ngôi vua Hùng là hành động xâm lăng. Triệu Đà đánh An Dương vương là cuộc chiến giải phóng đất nước.  Điều chung của hai sự kiện này là, sự chuyển giao quyền lực diễn ra chủ yếu tại triều đình một cách khá ôn hòa, không có chuyện một đội quan quân lớn ngoại bang tới đánh chiếm rồi đặt ách đô hộ. Vì vậy, không có những cuộc đàn áp giết tróc. Những thủ lãnh địa phương được tái dụng, dân mau chóng an cư lạc nghiệp và cũng mau chóng chấp nhận chính quyền mới. Ở đây, tình máu mủ đồng bào đã chiến thắng!
Cách nhận thức lịch sử như vậy phù hợp với đoạn kết của truyện Mỵ Châu - Trọng Thủy: “Những con trai ăn phải máu nàng Mỵ Châu đã sinh ngọc. Ngọc từ những con trai đó khi đem rửa trong nước giếng chàng Trọng Thủy trẫm mình sẽ trở nên tuyệt vời trong sáng.” Thông điệp của câu chuyện là: Đôi trai gái đã dâng tình yêu cùng sinh mạng của mình góp phần đưa lại thái bình thịnh vượng cho dân cho nước. Họ hoàn toàn trong sáng!
Đáng tiếc là có những người đã xuyên tạc lịch sử rồi dùng quyền lực áp đặt lịch sử bị xuyên tạc  khiến lịch sử đích thực bị vùi lấp! Càng đáng tiếc là cũng không ít người vì thiếu độc lập suy nghĩ nên không hiểu bản thông điệp rất minh triết trong phần kết câu chuyện! Họ không bao giờ tự hỏi: “Nếu Mị Châu là kẻ “phản bội” thì tại sao loài trai ăn phải dòng máu xấu xa ấy lại sinh ngọc?! Và ngọc nếu có, khi đem rửa vào nước giếng tên “gián điệp” trầm mình sao lại trở nên tuyệt với trong sáng? Sao từ sự xấu xa tận cùng lại nảy sinh tận cùng cái đẹp?!
Huyền thoại được sinh ra từ lịch sử. Bằng giải mã huyền thoại, con người đã minh định nhiều sự kiện lịch sử bị khuất lấp. Tại sao người ta không chịu hiểu thông điệp tuyệt vời minh triết của tổ tiên để từ đó tìm ra sự thật lịch sử?!
Do không hiểu lịch sử và văn hóa Việt nên mấy vị tiên, thứ chỉ làng Cổ Loa lập miếu thờ hòn đá vô tri, trưng ra trước bàn dân thiên hạ cái cảnh bi thảm thiếu nhân tính của câu chuyện, bêu riếu nàng Mỵ Châu cùng Nhật Nguyệt. Viết những câu thơ trên, ông Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, xếp sòng của ngành Tuyên huấn không chỉ thể hiện tri thức lịch sử hẹp hòi mà còn chứng tỏ lập trường ta, địch, bạn, thù lệch lạc (Lê Nin đang nghĩ suy gì/ Kremlin in bóng thành trì lặng im và Cờ bay Vạn lý trường thành/ Bắc Kinh tay chị tay anh triệu vòng!) Chẳng những thế, do không hiểu nổi minh triết Việt trong câu chuyện, nhà thơ đã giáng cho nàng Mỵ Châu tội nghiệp nỗi oan như núi! Ông Chinh Văn quả đáng trách, cái đáng trách của kẻ thiếu tư duy độc lập, “ăn theo”, nên đã cho ra những câu văn vần yếu kém cả về nội dung lẫn nghệ thuật!
“Hỡi con người mà tôi yêu mến, hãy cảnh giác!” Lời của J. Fuxic dưới giá treo cổ luôn luôn là tiếng chuông cảnh tỉnh con người. Với số phận người dân Việt phải sống bên miệng hùm nanh sói thì cảnh giác là sự sống còn. Nhưng cảnh giác một cách minh triết hoàn toàn khác với sự vô minh xuyên tạc lịch sử và bôi bẩn hình tượng văn chương đẹp nhất của tộc Việt! Khi sai lầm này chưa được sửa thì đấy vẫn là nỗi nhục của chúng ta!
  Sài Gòn, tháng Năm 2010
*http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=12860&LOAIID=1&LOAIREF=1&TGID
**Bùi Thiết. Quê hương của An Dương Vương ở đâu? 
http://www.baomoi.com/Home/DuLich/bee.net.vn/Que-huong-cua-An-Duong-Vuong-o-dau/3577879.epi)