Tôi gặp nhà thơ Hữu Thỉnh ở tòa soạn Báo Văn nghệ 17 trần Quốc Toản, vào đúng buổi sáng đầu tiên anh về nhận chức Tổng Biên tập Báo Văn nghệ thay nhà văn Nguyên Ngọc. Anh ngồi bên cửa sổ bâng quơ nhìn ra đường Trần Quốc Toản, Hà Nội mưa rả rích suốt cả ngày. Sau này tôi đọc bài thơ “Thơ viết ở biển” của Hữu Thỉnh, tôi cứ liên tưởng Hữu Thỉnh hôm ấy như đang nhìn ra biển. Nơi biển mênh mông không nước, không sóng, mà vần vũ khôn lường. Đoán chắc khi ấy nhà thơ chưa thể hình dung hết sự gì đang ở phía trước…Họa sỹ Thành Chương kéo tôi lại giới thiệu với vị Tổng Biên tâp mới, Thành Chương vui vẻ bắt chuyện như là một sẻ chia và cũng như là một mối giao hảo đẹp đẽ buổi ban đầu…
Từ trái sang phải: Nhà thơ Hữu Thỉnh (TBT. Báo Văn nghệ), nhà văn Nguyên Ngọc, Trung tướng Trần Độ, Thanh Hương (thư ký VP), Đinh Quang Tỉnh (tác giả bài viết), nhà văn Hữu Mai, BTV. Hoàng Thị Tú và nhà báo Ngọc Trai (Phó.TBT Báo Văn nghệ)
Ảnh Nguyễn Duy
Tấm ảnh này nhà thơ Nguyễn Duy chụp tặng tôi cách đây tròn 20 năm (tháng 1 năm 1990). Mới đó mà đã thành cổ tích, Tướng Trần Độ, nhà văn Hữu Mai cũng đã “Ngậm cười nơi chín suối”. Ngày ấy, tôi là Trưởng Văn phòng đại diện cho một đơn vị Phía nam tại Hà Nội, còn Nguyễn Duy làm Trưởng đại diện cho Báo Văn Nghệ - Hội nhà văn ở 43 Đồng Khởi, Sài Sòn.
Chiều Đông năm ấy, Hà Nội đẹp và thanh thản. Tôi tiếp và mời cơm thân mật các vị khách quý mà hầu hết là những người đã quen biết nhau, gồm các anh chị: Tướng Trần Độ (khi ấy anh đang là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 6 và là Phó Chủ tịch Quốc hội khóa 7, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Giáo dục của Quốc hội, Ủy viên Hội đồng Nhà nước (1989-1992); nhà văn Hữu Mai (tác giả tiểu thuyết Vùng trời), nhà văn Nguyên Ngọc “cựu” TBT Báo Văn nghệ, nhà thơ Hữu Thỉnh “tân” TBT Báo Văn nghệ, Chị Ngọc Trai phó TBT Báo Văn nghệ, nhà thơ Nguyễn Duy, BTV Hoàng Thị Tú…Tôi còn kéo cả ca sỹ Hồng Ngọc đem ghita đến góp vui (sau này Hồng Ngọc gặp nhạc sỹ Trần Tiến thành lập nhóm “Du ca đồng nội” cũng vang bóng được một thời rồi vụt tắt. Nhà thơ Hữu Thỉnh rất thích những ca khúc tiền chiến mà Hồng Ngọc vừa đệm đàn vừa hát. Giọng hát của cô tuy còn mộc mạc, sơ khai nhưng bốc lửa và quyến rũ…
Có lần, tôi vui miệng kể với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo về bữa tiệc hôm ấy có Nguyên Ngọc và Hữu Thỉnh ngồi chung mâm, nhưng Nguyễn Trọng Tạo “ra chiều” không mấy tin chuyện ấy xảy ra…Kể cũng lạ?
Rồi tôi cùng đơn vị vào Nam công tác, mãi đến năm 1996 mới trở lại Hà Nội. Ra Bắc, do môi trường công việc, tôi lại được gặp nhiều văn nghệ sỹ…họ kể rất nhiều về Hữu Thỉnh, rặt những chuyện chẳng vui chút nào. Nhiều người chê Hữu Thỉnh hay “giả vờ”, nhất là cái tính khen “sáo rỗng” cửa miệng “tuyệt vời, tuyệt vời”…Thậm chí, có người kể vanh vách rằng: Bố của nhà thơ nọ đã qua đời mấy năm rồi, gặp nhau, Hữu Thỉnh còn hồ hởi hỏi thăm: “ông cụ vẫn khỏe chứ?”, “Cảm ơn anh, ông cụ nhà em mất năm kia rồi ạ!!” Hữu Thỉnh cười hoan hỷ: “Tuyệt vời, tuyệt vời!!” …Mặc dầu công việc của tôi chẳng có gì liên quan đến Hữu Thỉnh, tôi cũng thôi không cộng tác với Báo Văn nghệ nữa, nhưng tự dưng nghe nhiều chuyện, chẳng biết thực hư, mô tê ra sao, tôi đâm ra “ghét” Hữu Thỉnh lúc nào không hay! Vì vậy, tôi hay “né”, trông thấy anh ấy là tôi lánh mặt để đỡ phải chào.
Mãi cho đến Tết nguyên Tiêu 2009 - Ngày Thơ Việt Nam. Gia đình tôi năm nào cũng đi dự và xem “Thả thơ lên trời”. Một người bạn thông hiểu chương trình khoe với tôi rằng năm nay thơ của Nguyễn Việt Chiến được chọn để thả lên trời. Tôi bỗng có cảm giác rất lạ. Quả thật trong tôi bỗng nhiên thổn thức, ấm áp đến lạ thường. Cái gì đó rất mới mẻ, rất nhân hậu, nhân văn trong lành quá đang về.
Nguyên là, vào tháng 5 năm 2008, nhà báo Nguyễn Việt Chiến bị bắt tạm giam vì hành vi Lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ liên quan đến việc thông tin về vụ án PMU. Tòa án Nhân dân Tối cao Hà Nội đã tuyên phạt Nguyễn Việt Chiến 2 năm tù giam vì tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Ngày 15 tháng 01 năm 2009 Nguyễn Việt Chiến được đặc xá trước Tết nguyên đán Kỷ Sửu, khi anh đã thụ hình 8 tháng tù giam. Nguyễn Việt Chiến vừa ra khỏi “khám”, mới đầy tháng mà Ngày thơ Việt Nam 2009, câu thơ: “Tôi cầm chính cả tôi lên / Câu thơ nhặt được phía miền quạnh hiu” của anh lại được thả lên trời cùng với các tên tuổi: Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông, Cao Bá Quát, Tú Xương, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Việt Phương, Felix Rodriguez (Cuba), Ismael Gomez Braga (Brazil), Hải Như, Liên Nam, Trần Đăng Khoa, Hưởng Triều, Thu Bồn, Đỗ Trung Lai, Lâm Xuân Vi, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Chử Văn Long, Thu Nguyệt, Trinh Đường, Quang Huy, Trần Lê Văn, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Lê Đình Cánh, Trần Nhật Thu, Vũ Quần Phương, Nguyễn Trọng Tạo, Vương Trọng, Trần Nhuận Minh, Nguyễn Quang Thiều, Hoàng Trần Cương, Lê Xuân Đố, Đồng Đức Bốn, Lê Huy Quang, Trần Quang Quý, Trần Kim Hoa,Trương Nam Hương, Trần Quang Đạo, Nguyễn Thị Mai, Trần Anh Thái, Đặng Huy Giang. Quả là điều ngoài sức tưởng tượng của tôi.
Việc chọn 50 câu thơ hay để đọc rồi thả lên trời không những nhằm tôn vinh thơ, tôn vinh tác giả thơ mà còn làm cho ngày Hội thơ thêm hứng thú, đẹp mắt và thăng hoa. Qua 7 lần Hội thơ, đã có 350 câu thơ hay được tôn vinh và thả lên trời. Đó là một con số ấn tượng, đầy ý nghĩa. Mà người duyệt lần cuối, người chịu trách nhiệm tối hậu là Chủ tịch hội Nhà văn Hữu Thỉnh. Việc quyết định tôn vinh thơ của Nguyễn Việt Chiến trong Ngày Thơ Việt Nam là “nhạy cảm”, là rất khó khăn. Nhưng Chủ tịch Hữu Thỉnh đã dũng cảm và có bản lĩnh phi phàm để “Quyết” việc này. Tôi đồ rằng các vị Tổng thư ký hay Chủ tịch các khóa trước của Hội nhà văn Việt Nam chưa chắc đã khu xử được như Hữu Thỉnh. Thật đáng nể trọng lắm thay.
Nói thêm một chút về nghĩa tình của Hữu Thỉnh,
Mấy năm trước tôi có quen một vị phó chủ tịch Hội NS…Ông là người đáng kính. Ông rất trọng việc “Hiếu”. Trong túi áo véc của ông lúc nào cũng có vài tờ điếu văn in sẵn, để trống mấy dòng điền tên và đặc điểm lịch sử của người quá cố. Riêng phần ca ngợi công đức của người sẽ chết, thì lời “điếu” nhất nhất phải là “Ông ra đi để lại một khoảng trống to lớn không thể lấp đầy”….Nay đã nghỉ hưu, ông không tham gia vào sân chơi của Hội ấy nữa, nhưng các vị cùng tuổi ông lại vẫn cứ qua đời, không có ông họ vẫn được nghe lời điếu của lãnh đạo Hội, chỉ khác là nội dung mỗi bài ai điếu mỗi khác nhau mà thôi.
Riêng nhà thơ Hữu Thỉnh, nghe nói anh không bao giờ đọc điếu văn do người khác viết. Đối với những bậc tiền bối trong làng Văn mà theo trách nhiệm anh làm trưởng ban tang lễ thì “dứt khoát” đích thân anh viết và đọc lời điếu. Tôi được biết 2 trong số nhiều bài điếu do nhà thơ Hữu Thỉnh viết. Hai áng văn đặc sắc nói lời vĩnh biệt 2 thi nhân nổi tiếng của dân tộc Việt nam là Hữu Loan và Hoàng Cầm. Có thể nói đây là nghĩa cử cao đẹp, sang trọng tiêu biểu cho nghĩa tình, lòng kính trọng và đầy tinh thần trách nhiệm của Hữu Thỉnh – Nhà thơ, Hữu Thỉnh – Chủ tịch Hội đối với người quá cố cũng như những người đang sống.
Với Hữu Loan,
Do thời gian quá gấp,chỉ vỏn vẹn mấy tiếng đồng hồ. Hữu Thỉnh phải viết lời ai điếu ngay trên đường vào sứ Thanh quanh co, xa vời vợi…
Anh viết: “Ông ra đi nhẹ nhõm và mãn nguyện như vừa chở xong một chuyến xe đá. Những người như ông không bao giờ coi cái chết là trút xong một món nợ đời mà chính là bước sang một thế giới khác, sinh sinh hóa hóa vô thường.
Thơ của ông được đón nhận nồng nhiệt ở mọi miền đất nước, làm say lòng hàng triệu con người, làm bịn rịn nhớ nhung bao ngả đường kháng chiến.
Ông là nhà thơ hai lần đặc sắc. Đặc sắc ở hồn quê và đặc sặc trong khí phách… Hữu Loan là nhà thơ đi tiên phong trong việc đổi mới thơ trong kháng chiến chống Pháp, tài hoa rất mực mà cốt cách đến điều. Từ thơ ông và từ con người ông toát lên vẻ đẹp thuần khiết của một thi nhân và ngọn lửa ấm của một nghệ sĩ cách mạng.
Hữu Loan là sở hữu tinh thần hôm qua, hôm nay và mai sau của chúng ta. Những gì mà ông đã để lại sẽ còn mãi mãi với quê hương và đất nước và sẽ được các thế hệ đời sau nhớ mãi. Nhớ mãi nhà thơ chiến sĩ, nhớ mãi một nghị lực, một tấm gương hiếm có, vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt để giữ trọn sự cao khiết của hồn thơ. Hình ảnh thi nhân chở đá xây đời từ sự thật đầm đìa mồ hôi đã thành biểu tượng cao lộng.
Hữu Loan quyết liệt vinh danh cách mạng và kháng chiến, vinh danh quê hương xứ sở. Từ hồn quê, hôm nay Hữu Loan nhập cùng hồn nước. Gánh nặng của đời thi nghiệp thơ giờ đây ông dồn lên vai tất cả chúng ta. Hữu Loan là một trong những người có cá tính sáng tạo độc đáo trong nền thơ đương đại của Việt Nam.”
Với Hoàng Cầm,
Tuy rằng tổ chức tang lễ nhà thơ Hoàng Cầm ở Hà Nội có nhiều thuận tiện hơn, nhưng viết về Hoàng Cầm để “lọt nhĩ” những cái tai “Hàn lâm” nơi Kinh kỳ thì không hề dễ chút nào. Hữu Thỉnh đã viết về nhà thơ Hoàng Cầm bằng từng con chữ cẩn trọng như thế này: “Như những ngọn gió tìm tới cây sáo để thốt lên lời ca, Hoàng Cầm đã tìm đến thơ, đặc biệt là thơ để bày tỏ những nặng lòng với cuộc sống, với đất Việt, hồn Việt. Và qua thơ ông đã tạo nên những cơn địa chấn trong trái tim con người… Độc đáo mà tự nhiên, là mình và cũng là tất cả, Hoàng Cầm đã bật nảy những dây đàn căng trong mỗi con người, hòa điệu mà đắm say, một lần và mãi mãi. Giờ đây, nhớ lại tất cả chúng ta cảm thấy bàng hoàng, cảm thấy đã mất đi một cái gì đó thân thiết mà ấm áp không bao giờ lặp lại… Vì tất cả những gì đã cống hiến cho đất nước, cho thơ ca dân tộc, giờ đây, anh được quyền yên nghỉ. Phía sau anh, sông Đuống vẫn nghiêng nghiêng đưa thơ anh về với biển lớn.” Và “Nhà thơ Hoàng Cầm đã ra đi, để lại cho thế hệ sau một công trình thơ văn lớn”.
Câu văn nào cũng hay, xúc tích và hàm chứa bao điều muốn nói, và thật ra anh đã nói hộ nhiều người.
Có lẽ cũng chẳng phải viết gì thêm. Nên chăng, đọc một trong những bài thơ hay của nhà thơ Hữu Thỉnh. Bài “Thơ viết ở biển”:
“Anh xa em Trăng cũng lẻ Mặt trời cũng lẻ Biển vẫn cậy mình dài rộng thế Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím Sóng chẳng đi đến đâu Nếu không đưa em đến Dù sóng có làm anh Nghiêng ngả Vì em”
Và Tình khúc “Biển, nỗi nhớ và em” của nhạc sỹ Phú Quang đã ra đời. Nhạc sỹ Phú Quang tâm sự: Một buổi chiều tôi ngồi giữa hoàng hôn của biển Vũng Tàu. Bài thơ của nhà thơ Hữu Thỉnh vang trong đầu tôi và tôi bỗng thấy mình đồng điệu với tâm trạng đó. Bài hát “Biển, nỗi nhớ và em” ra đời. Chỉ có câu Gió không phải là roi mà quất núi phải mòn tôi thương núi nên đổi lại thành Gió âm thầm không nói, mà sao núi phải mòn ...
Tôi viết những dòng trên như một lời nói lại.
Và chúng ta, HÃY CỨ THỬ MỘT LẦN “GIẢ VỜ” NHƯ HỮU THỈNH!
Họa sỹ Đinh Quang Tỉnh |