Ngày 11/10/2012 Giải Nobel văn học năm 2012 đã được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao cho nhà văn Trung Quốc Mạc Ngôn. Nhiều người Trung Quốc đã được trao giải Nobel nhưng không phải lần trao giải nào cũng được Trung Quốc hoan hỉ đón nhận như lần này. Năm 2000 Cao Hành Kiện được trao giải Nobel văn học nhưng Trung Quốc đón nhận tin này với một thái độ thờ ơ vì Cao Hành Kiện đã sang Pháp sinh sống và nhận quốc tịch Pháp từ năm 1988. Lúc ông còn sống ở Trung Quốc trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-1976) ông từng bị đưa vào trại cải tạo 7 năm và bị thiêu hủy bản thảo những tác phẩm của mình. Giải Nobel Hòa bình năm 2010 được trao cho nhà hoạt động vì nhân quyền Lưu Hiểu Ba khi ông này đang ở trong nhà tù làm cho Trung Quốc nổi cơn giận dữ.
Quản Mô Nghiệp sinh ngày 17/2/1955 tại huyện Cao Nghiệp, tỉnh Sơn Đông trong một gia đình nông dân, khi viết văn lấy bút hiệu là Mạc Ngôn. Năm 2008 trả lời phỏng vấn của tờ báo tiếng Tây Ban Nha El Pais ông giải thích: “Mạc Ngôn tiếng Hán có nghĩa là không nói. Tôi chọn bút hiệu đó để nhớ những năm tháng của giai đoạn Cách mạng Văn hóa tàn khốc. Hồi đó bố tôi sợ tôi nói năng bậy bạ có thể mang vạ vào thân nên khuyên tôi đừng nói năng gì cả, tốt nhất là ngậm miệng lại như một thằng câm”. Thời niên thiếu ông được khuyên ngậm miệng ăn tiền. Lớn lên ông đi bộ đội, học ở Học viện Nghệ thuật Quân Giải phóng, viết văn và trở thành Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc. Với chức vụ đó ông được xem là công thần của chế độ. Là công thần của chế độ thì ra sức ca ngợi chế độ và ngậm miệng im lặng trước những bức xúc ngang trái của xã hội là chuyện thường tình. Là công thần của chế độ ông chép tay lại bài nói chuyện về văn nghệ của Mao Trạch Đông tại Diên An năm 1942 để làm thành một ấn bản đặc biệt. Dưới ánh sáng chỉ đạo của bài nói chuyện này những tác phẩm văn nghệ được viết ra theo cùng một công thức. Xã hội có bốn hạng người: cán bộ trung kiên giác ngộ cao và không thể hủ hóa là loại thứ nhất, một số cán bộ và quần chúng đôi khi còn lầm lẫn sai đường là loại thứ hai, bọn trung nông và tiểu tư sản thành thị thuộc loại thứ ba và loại cuối cùng là địa chủ và tay sai quốc dân đảng. Người cầm bút phải đề cao hạng thứ nhất, hạng thứ hai và thứ ba thì thế nào cũng được Đảng dẫn dắt về con đường chính nghĩa, còn hạng thứ tư thì dẫu có ranh ma cuối cùng cũng bị trừng trị và thất bại. Đó chính là cương lĩnh văn học nghệ thuật giáo điều đã gây tai họa cho văn học Trung Quốc cũng như Việt Nam trong suốt nửa thế kỷ. Nhiều quan điểm của cương lĩnh này đã được Trường Chinh sao chép lại trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 và cho đến tận bây giờ một số quan điểm trong bản Đề cương đó vẫn còn nguyên giá trị. Là công thần của chế độ trong nhiều cuộc phỏng vấn và bài viết Mạc Ngôn ra sức bênh vực cho chế độ kiểm duyệt hết sức gắt gao của Trung Quốc: “ Tôi tin rằng các hạn chế hay kiểm duyệt là điều tốt cho sáng tạo văn chương. Kiểm duyệt sẽ làm cho văn chương trở nên tinh tế hơn. Không ai cấm nhà văn bày tỏ sự bất bình trước các góc tối của xã hội và con người nhưng diễn tả phải tinh tế” . Vì vậy những người phản đối việc trao giải Nobel cho Mạc Ngôn không ai khác mà chính là những đồng bào của ông. Nhà văn Yefu tuyên bố: “ Giải Nobel không nên trao cho một nhà văn chỉ biết ca ngợi chế độ chuyên chế”. Còn nghệ sĩ Ngải Vị Vị thì phát biểu: “ Đối với một nhà văn đương đại tránh né những vấn đề của cuộc sống ngày hôm nay là việc không thể chấp nhận. Văn chương không thể tách rời khỏi cuộc đấu tranh của dân tộc. Tôi không chê trách Ủy ban giải Nobel nhưng quyết định trao giải của họ cho Mạc Ngôn đã phản ảnh một khẩu vị thật kém cỏi”.
Đối với Mạc Ngôn giải Nobel là một món quà ngọt ngào. Đối với nhà cầm quyền Trung Quốc giải Nobel văn chương của Mạc Ngôn là một công cụ tuyên truyền cho “quyền lực mềm” của họ. Họ đã mạnh về kinh tế và quân sự nhưng “quyền lực mềm” là thứ bất cứ siêu cường nào cũng cần phải có.