Nếu mỗi vùng quê có một hình ảnh để thành biểu tượng của đất quê và hồn người, thì ở quê tôi cánh buồm cánh dơi cùng con thuyền vỏ gỗ là hình ảnh để thương để nhớ đã đi vào máu thịt. Với trang lứa chúng tôi, khi sinh ra, gặp đất nghĩa là đã gặp luôn cả cánh buồm. Cánh buồm như thể có trước là để đón những đứa trẻ chúng tôi-những đứa con của biển đi vào những khát vọng.
Vùng Hà Nam-Thị xã Quảng Yên có dòng sông Bạch Đằng lịch sử, dòng sông Chanh thơ mộng, có bến đò Chanh, bến đò Lá, bến Than, bến Cống Quỳnh lộng gió, có lạch sông mở ra với vịnh Hạ Long, với cửa biển Cát Bà-Cát Hải, với cửa Nam Triệu, vịnh Bắc Bộ xa khơi. Là vùng sông nước cửa biển, nên đa số cư dân quê tôi sống bằng nghề vận tải đường thuỷ. Từ đời nọ sang đời kia, dòng sông đã nuôi lớn bao thế hệ. Cánh buồm và con thuyền vô cùng gắn bó và sâu sắc đối với cư dân. Cứ mỗi sớm mai trước cửa ngôi nhà nhìn ra dòng sông, tôi đã gặp ngợp ngàn những cánh buồm xuôi ngược. Buồm chạy vát, buồm xoè vạt cánh tiên rạt rào sóng gió khiến con thuyền lao đi như không gì cản nổi. Dân gian nói “làm ăn như thuyền được gió” là thế! Dưới cánh buồm rộn rã những tiếng cười sảng khoái, những câu hát đối, những câu hò biển gọi bạn vọng vang. Khi mất gió thì cánh buồm và con thuyền bỗng lặng lẽ, lửng lơ soi bóng xuống mặt sông, giữa mặt nước chỉ lơ thơ ve vuốt tận chân đê.
Tuổi học trò chúng tôi thường rủ nhau ra bến tắm, bơi trong dòng nước mặn xanh biếc từ biển dâng lên. Dòng sông trong vắt lúc trôi nhẹ nhàng như dải lụa, lúc chảy xiết như vó ngựa, mang theo những con thuyền căng cánh buồm nâu no gió hối hả ra biển cả và từ biển cả trở về các bến đỗ. Không biết từ bao giờ Cánh buồm và con thuyền đã đi vào tâm tư tình cảm chúng tôi. Nó như những giấc mơ kỳ lạ luôn gợi mở và hấp dẫn muốn khám phá những chân trời, những góc biển xa. Mộng mơ theo những con thuyền rong ruổi lướt qua, chúng tôi thường gấp những mảnh giấy học trò làm những con thuyền, những cánh buồm thả xuống dòng sông.
Cánh buồm Hà Nam từng có mặt trên các đại dương và bến đỗ các miền quê, các quốc gia. Ngày xưa, làng Phong Cốc, Yên Đông từng có những đoàn thuyền vận tải vỏ gỗ căng buồm vào Nam ra Bắc, buôn bán tận Sài Gòn, Gia Định, vượt biển Đông đến các bến cảng Singapo, Malaixia, Hồng Kông, Bắc Hải-Trung Quốc... giao thương hàng hóa.
Xa nữa trong lịch sử, như hiển hiện lên những cánh buồm gắn trên những chiếc thuyền nhỏ của dân binh vùng sông nước Bạch Đằng náu mình trong các mảng rừng ngập mặn bãi triều, chờ giặc Nguyên Mông tới là xuất kích… đã cùng vua tôi nhà Trần làm nên chiến thắng Bạch Đằng năm Mậu Tý 1288.
Từ thuở bãi triều hoang vu, trải qua hơn 600 năm, không thể kể hết bao nhiêu thế hệ những cánh buồm đã góp sức chở đất đá về đổ xuống lạch sông, cửa cái làm cốt quai đắp nên 34 km đê biển vùng Hà Nam. Ngay nửa thế kỷ nay thôi, đã có hàng vạn con thuyền vận tải chở hàng triệu mét khối đá khai thác từ các dãy núi Tràng Kênh, Hoàng Tân bồi trúc tiếp thân đê cho các làng quê yên bình trước cửa biển. Có đi quanh vòng đê Hà Nam, đi trên những tấm mặt bê tông, những vỉa kè chắn sóng, mới thấy hết được sức lực con người thông qua nghề vận tải thuyền buồm đã dồn cho công trình tường thành này thật vô giá.
Những năm kháng chiến chống Mỹ, thực hiện "Chiến dịch VT5" theo lệnh của Bộ Quốc Phòng, hàng chục chiếc thuyền vận tải cỡ lớn của xã Hà An đã vận chuyển hơn 500 tấn hàng hoá chiến lược chi viện cho đồng bào các tỉnh miền Trung và miền Nam đánh thắng giặc Mỹ. Có chiếc đã không về, hiến dâng thân mình cho biển cả và sự nghiệp của dân tộc. Hà An được vinh danh 2 lần danh hiệu Anh hùng, chính là nhờ một phần ở những cánh buồm một thuở xông pha.
Cánh buồm là ruột thịt, là phần hồn của cư dân đi biển. Để khắc ghi vào ký ức lịch sử một ngôi làng, nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập xã mới Hà An (1971-2011), trước khi từ giã làng để lên phường, người Hà An đã cho dựng một bức phù điêu hoành tráng hơn một trăm mét vuông trên sân trụ sở Ủy ban. Giữa bức phù điêu hiển hiện một con thuyền vỏ gỗ và đôi buồm cánh dơi lớn làm nhân vật trung tâm. Nhờ cánh buồm, nhờ con thuyền vận tải mà người Hà An từ chỗ “chân sào tay lái” quanh năm lênh đênh sông biển, đã tìm ra đất nơi cửa biển để lập làng, dựng nhà, xây bến. Nhờ cánh buồm, nhờ con thuyền vận tải mà người Hà An có những Công ty Đóng tàu cho ra đời những con tàu biển hàng nghìn, hàng vạn tấn, đem về cho phường xã mỗi năm hàng trăm tỷ đồng. Cuộc sống nông thôn nơi đây thời Đổi mới ngày càng tăng trưởng, phồn vinh.
Đoàn thuyền của anh rể tôi gồm những cư dân Hà An cũng từng vật lộn với một cơn bão lớn năm 1977. Thuyền bị bão đánh tơi bời từ Bạch Long Vĩ dạt vào cửa Lạch Trường, Thanh Hoá. May mắn anh tôi ôm được một mảnh buồm bị cuộn lại. Những con sóng bằng cái đình đã tung cả người cùng mảnh buồm ném xuống một bãi cát. Anh đã sống được và trở về là nhờ mảnh buồm nhỏ nhoi đó!
***
Để có được những cánh buồm thi gan, phong phanh cùng nắng gió, người dân quê tôi đã có cả một nghệ thuật khâu vá, đánh buồm thường gọi là dát buồm. Buồm được làm bằng những khổ vải "rường khau" Nam Định, một loại vải thô sợi trắng, dai bền. Các cụ già bảo ngày xa xưa không có vải, phải dùng những mảnh mo cau lớn, rồi những thước lụa ghép lại.Không biết từ đâu, dân quê tôi đã tìm được cách nhuộm vải bằng củ nâu, vỏ cây đâng. Củ nâu thì đào trên rừng, vỏ đâng thì lấy từ cây đâng mọc dưới các rừng sú vẹt. Những thứ ấy đem nấu nhừ trong nồi đồng, hoặc chảo gang lớn. Nước củ nâu, nước vỏ đâng sánh đặc màu nâu đỏ. Nhúng vải vào chảo, ngâm nhiều giờ cho nước nhuộm thấm kỹ, làm sợi vải săn lại. Rồi căng vải ra phơi. Lại nhuộm đi nhuộm lại nhiều lần. Những kỳ được nắng, những tấm vải dài săn chắc như những tấm da bò. Vải đã ăn màu, trải ra sân ra bãi, bắt đầu việc dát buồm...
Nghe tôi hỏi lại thời cánh buồm và con thuyền gỗ ván để viết báo, ông Dương Văn Bệ lặng người, nheo nheo mắt như thể một già làng kể chuyện đang hình dung cho những dòng cổ tích hiện về. Ông bồi hồi với những ký ức :
-Người thợ dát buồm thường là những người đi biển chuyên nghiệp, dát buồm giàu kinh nghiệm. Người ta vạch hình cánh buồm theo khổ lớn nhỏ tùy theo dáng vóc, trọng tải con thuyền sao cho cân đối, hợp lý với sức tải, sức chịu gió của mỗi loại thuyền. Buồm có hai loại: Buồm mũi căng đằng cột buồm đầu mũi thuyền; buồm lái (thường gọi là buồm nòng) gắn vào cột buồm nòng trụ ở giữa khoang thuyền. Buồm mũi bao giờ cũng nhỏ và thấp hơn buồm lái. Ở làng Phong Cốc trước có những gia đình đi buôn sang Trung Quốc hoặc mạn ngược lên các tỉnh đồng bằng sông Hồng thường đóng những chiếc thuyền đinh lớn gắn tới ba buồm. Thuyền ba buồm chạy rất nhanh. Cánh buồm nòng ở giữa khoang thuyền bao giờ cũng cao to hơn hẳn cánh buồm mũi và cánh buồm lái...
Ngừng giây lát, cầm chiếc điếu cày xoè diêm châm lửa, rít một hơi dài, rồi chừng như bắt đầu ngấm vị thuốc lào cùng mạch chuyện, ông kể một cách say sưa:
-Các tấm vải được khâu liên kết với nhau bằng chỉ sợi to hoặc dây gai loại tốt xâu bởi cây kim săt lớn. Sau này các ông thợ may khâu buồm bằng máy may. Cánh buồm hình thành, người ta tính toán từng khoảng cách đều đặn như nan quạt, khâu ống luồn để xâu cây thép buồm bằng một loại tre già, tạo cho cánh buồm những khoảng ô đón gió và cũng chính làm cho lòng buồm thêm cứng cáp. Ngoài mép rìa chạy đường rường buồm bằng loại dây thừng đay săn chắc hoặc dây nilon để viền giữ cánh buồm. Diện tích cánh buồm hẹp hay rộng tùy theo các loại thuyền nghề. Buồm mũi thường dát từ 70-80 mét vải; buồm nòng tới 120 mét. Dát xong một đôi buồm từ cắt vải đến nhuộm nâu, đóng rường cột... cũng phải mất hai, ba tháng mới được hạ thuỷ. Cánh buồm hiện lên như cánh con dơi khổng lồ...
Dân miền biển quê tôi gọi "buồm cánh dơi" là vậy. Buồm cánh dơi đón gió rất khỏe, tạo ra sức đẩy rất lớn khiến con thuyền chạy nhanh, lướt như bay trên mặt sóng. Cánh buồm giương lên trông thật ngang tàng, thách thức. Con thuyền lúc ấy chẳng khác gì con chim đại bàng xòe cánh rộng bay vào thẳm xanh biển lộng, chân mây.
Trước đây, làng xã nào cũng có những người thợ đánh buồm, dát buồm thành thạo. Nhưng được cánh buồm ăn gió, bền chắc, chỉ khẽ vật dây lèo thuyền đã lướt nhẹ như tên bay, phải có cả bí quyết nghề nghiệp dát buồm riêng cùng với cách đặt cột buồm của mỗi người thợ dát buồm và thợ đóng thuyền. Nổi tiếng khâu buồm, dát buồm phải nói tới ông Phó Tiến, ông Lãi Lùn, ông Lái Mậm, ông Đĩ Bệ... Hầu như cả đời họ chỉ chuyên khâu buồm, đánh, dát buồm cho các thuyền vận tải, thuyền chã cá chã tôm. Ông Nguyễn Văn Đỏ ở thôn Cẩm Luỹ quanh năm suốt tháng chuyên đi dát buồm thuê, sau sắm được thuyền buồm gây dựng nghiệp chã ván đánh bắt hải sản cho con cháu. Các thôn Cống Mương, Bến đò Chanh, Cống Quỳnh... sân các gia đình ven đê quanh năm ngày tháng thay sắc buồm phơi cùng mùi nước nâu, nước vỏ đâng tỏa thơm hăng hắc. Buồm mới thì xuống thuyền, vào cột, háo hức vươn cánh ra khơi. Buồm cũ chuyển màu sau những chuyến rong ruổi dưới nắng mưa, dãi dầu trong sóng to gió lớn thì lên bãi nằm ngơi để vá lại những mảng rách-làm lành lại những vết thương ...
Bây giờ trong nhịp điệu đi lên của cuộc sống mới, các ngả sông nước sôi động tiếng động cơ, tiếng còi thuyền máy, tàu máy; không còn thấy những con thuyền tỏa cánh buồm nâu thênh thang rẽ sóng cùng tiếng sáo yêu đời ai thổi vi vu trên nóc mui thuyền. Cánh buồm đã vắng vào quá vãng, chỉ còn mong manh trong nỗi nhớ. Dường như bù vào khoảng trống nỗi nhớ, vịnh biển Hạ Long thường xuất hiện những con thuyền du lịch lớn mang trên mình hai cánh buồm nâu đỏ. Nhưng đấy chỉ là "những người mẫu" của biển nhờ đẩy bằng sức máy trên sân khấu trời nước, khiến phần nào thỏa ý khách du lịch chiêm ngưỡng, chứ không thể là những "đứa con của biển" lãng mạn và dũng mãnh xông pha.
Tôi cũng đã từng lặn lội đến các bến bãi, miệt sông đi tìm những chiếc thuyền buồm quê tôi mà không sao thấy được để chụp ảnh. Đành bó tay vì quá muộn khi chợt nhớ đến cánh buồm ngang dọc những thời xa! May ra chỉ có thể thấy cánh buồm trong một vài tác phẩm ảnh của Nghệ sĩ nhiếp ảnh Đỗ Kha. Chúng tôi, có lẽ là trang lứa cuối cùng còn được biết thế nào là cánh buồm-cánh chim của biển cả?
Những dịp đi thăm vịnh biển Hạ Long, ngồi trong khoang tàu du lịch ầm ào tiếng máy, tôi từng gặp cảnh các du khách phải ghé tai nhau hoặc hét rõ to để nói chuyện. Tôi từng nghe nguời ta mong ước nhìn những con thuyền gỗ ván giương cánh buồm nâu ngày xưa. Qua tâm sự, dễ nhận ra du lịch bây giờ không chỉ đơn thuần tìm đến nghỉ ngơi, mà người ta còn muốn biết, muốn tìm hiểu, muốn về với những cội nguồn.
Tự dưng tôi lại hình dung về những cánh buồm và tự hỏi: Ngành du lịch Quảng Ninh sao không nghĩ tới chuyện đầu tư đóng những con thuyền gỗ ván và dát những cánh buồm nâu truyền thống mang bản sắc thuyền buồm vùng biển Hạ Long. Những con thuyền đó không cần lắp máy, mà chạy bằng sức gió những cánh buồm! Nên chăng đầu tư đào tạo, nuôi những ông lái có kỹ thuật lái thuyền thủ công? Ngồi trên con thuyền, dưới bóng cánh buồm nâu lộng gió do ông lái thanh thản lái băng băng hoặc từ từ rẽ sóng trên vịnh biếc, du khách sẽ cảm thấy vô cùng thú vị và sảng khoái lắm thay! Cần chi phải ngồi trong khoang tàu máy, có muốn tự tình, muốn nói chuyện, muốn hát câu gì cũng phải lên gân! Làm như vậy đã tiết kiệm vốn liếng, bớt tốn kém xăng dầu, giảm lượng phế thải, lại thanh sạch mặt vịnh, giữ môi trường của biển thêm trong xanh, bền vững. Hơn nữa, lại tạo nên một không gian mơ mộng, đượm vẻ thần tiên cho cả chủ và du khách hòa nhập bầu nghỉ ngơi dịu êm với những niềm vui nhẹ nhàng và thân thiện trên sóng nước suốt chặng hành trình du lịch.
10-2012