Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

NGÀY XUÂN NÓI CHUYỆN...PHÚ

Khúc Hà Linh
Thứ hai ngày 17 tháng 1 năm 2011 8:11 PM
 
Khúc Hà Linh
  * Khoa thi Đình năm 1304-niên hiệu Hưng Long triều Trần Anh Tông , Mạc Đĩnh Chi, người Hải Dương đáng đỗ trạng nguyên, thấy tướng mạo của Mạc Đĩnh Chi xấu xí,Vua  có ý không dùng.
* Mạc Đĩnh Chi đã làm bài phú” Sen trong giếng ngọc”, tự ví mình như cây sen trong giếng:” Không phải bên trong trống rỗng, không có gì; than cho số phận thuyền quyên phần nhiều gặp trắc trở. Nếu cái cuống lá của ta vẫn đứng thẳng, thì mưa gió có sợ gì  ”. Vua Trần khen  hay đã quyết cho Mạc chức Trạng nguyên.
* Phú có vần, bắc cầu giưã thơ và văn xuôi, thịnh hành từ đời Hán. Phú bắt nguồn từ dân ca;  với tác phẩm đầu tiên của Khuất Nguyên thời Chiến Quốc do kết hợp giữa Sở từ và văn xuôi. Đời Đường, phú được đưa vào khoa cử và thịnh hành như thơ. Khi làm theo luật như thơ Đường,  gọi là Đường phú.
* Nhưng phú còn ít người biết đến….

Theo Nguyễn Đổng Chi, bài phú chữ Hán cổ nhất ở Việt Nam là bài : Mây trắng dọi biển xuân của Khương Công Phụ, với lời lẽ hoa lệ, bóng bẩy:
Mây trắng ùn ùn , kéo la đà trên mặt biển xuân
Khoảng không sách bạch, tầng biếc trải trăng
Từ khi phú vào Việt nam đã hình thành hai dòng : phú chữ Hán và phú tiếng Việt. Trong cuốn “ Phú Việt nam , cổ và kim” NXB Văn hoá xuất bản năm 1960,  chỉ thấy có 6 bài phú chữ Hán, riêng đời Trần có hai bài của Trương Hán Siêu và Mạc Đĩnh Chi.
Khi chữ Nôm xuất hiện thì phú tiếng Việt được hình thành.
Cũng như thơ, phú có sức chuyên chở nội dung khá phong phú. Khi thời phong kiến thịnh trị, phú tả tình yêu thiên nhiên, cảnh non sông gấm vóc , hoặc ngợi ca chiến công oanh liệt các vị anh hùng, các công hầu khanh tướng; ca ngợi vị vua văn võ song toàn, thấu hiểu lòng dân trăm họ. Cũng có bài tỏ lòng căm giặc ngoại bang. Mạch văn ấy toát lên lòng trung quân ái quốc , bảo vệ chế độ phong kiến, đề cao luân lý đạo đức Khổng Nho, tam cương ngũ thường- giường cột của xã hội: 
Đạo thần tử hết lòng thờ chúa
Gian nan từng dõi dạ trung thành
Khi triều đại phong kiến suy tàn, phú có nội dung nhàn cư, ở ẩn, oán trách triều đình bất công, hoặc lập ngôn, lập chí của những chí sĩ nặng lòng với đất nước. Nhiều bài phú tả nỗi khổ đau của phụ nữ, tố cáo chiến tranh, khao khát hoà bình ; hoặc tả cảnh khốn nghèo của nhân dân lao động ; vạch trần thói xấu xa đê tiện của xã hội đương thời. Phú hiện đại có sức mạnh tuyên truyền, giải thích về  cách mạng, phản đế phản phong , đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ hoà bình thế giới:
Đảng cộng sản là vì nhân đạo, dắt dìu nhau khỏi bể trầm luân
Nước Nga Xô dựng cột nhân quyển treo vạn tuế tấm gương sáng chói
Từ xưa, ở nước ta đã có các tác giả  nổi tiếng về phú, như : Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn…Đến thời kỳ thực dân Pháp xâm lược Nam kỳ thì có  Nguyễn Đình Chiểu, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu…và sau này còn có Nguyễn Khuyến, Tú Xương . Từ năm 1945 cho đến hết cuộc kháng chiến chống Pháp và đấu tranh giải phóng miền Nam các bài phú chủ yếu của Tú Mỡ. Đồ Phồn, Chu Hà, Ngô Điền, Tú Sụn, Nguyễn Ngọc Tỉnh, Ba Dân. Những bài phú như:  Nhắn gửi họ Ngô, Kể tội Mỹ Diệm, Chúc tết Ngô “chí sĩ”, Miền Nam bất khuất…đã vạch trần bộ mặt hiếu chiến của kẻ thù , đồng thời ca ngợi tinh thần chiến đấu của nhân dân miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ.
Để chuyển tải nội dung trên, phú có nhiều thủ pháp nghệ thuật
Trước hết phải kể đến ngôn ngữ: Bằng lối văn vần kết hợp với văn xuôi, khi thì đối nhau từng đôi một như Đường phú, khi thì không đối như phú cổ thể. ngôn ngữ của phú chọn lọc, công phu, có khi dùng điển cố. Càng về sau ngôn ngữ phát triển hơn,  lưu loát hơn , nó gần với ngôn ngữ đời thường. Đặc biệt trong phú người ta dùng cả tục ngữ, thành ngữ gần gũi ca dao: Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Hoặc : Sống nhiều tuổi, biết nhiều điều/ Hơn một ngày, hay một chước.v.v.
Cũng nhờ ngôn ngữ đơn âm của tiếng Việt có nhiều âm thanh, màu sắc, nhịp điệu… nên các câu văn trong phú dễ dàng đối chọi, dễ dàng bắt vần, tạo thành khi thì dồn dập , đanh thép khi thì xót đau, hoặc châm biếm , cười cợt v.v.
Cách thức phô diễn của phú cũng đa dạng. Khi thì giữ đúng luật bằng trắc theo Đường phú, mỗi câu bốn chữ sắc gọn:
Vóc đẫy ba ôm
Mình cao bẩy mét
Trí dũng lắm trò
Võ văn ra phết
( Bùi huy Phồn)
Lại có khi dùng 8 chữ, chia làm hai đoạn bằng  nhau :
Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu
Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng
(Tú Xương)
Cũng có khi  chia làm hai vế, mỗi vế dùng 6,7 hoặc 8,9 chữ  đối nhau:
Kỳ  đệ tam văn  đã viết rồi
Bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng.
        (Tú Xương)
Rất nhiều đoạn phú tả ước lệ, khuôn sáo. Nói về  vua chúa thì Thuấn Vũ, Đường Ngu, hoặc tả cảnh nhàn tản thường là mai lan cúc trúc, tuyết nguyệt phong vân, chủ ý là tượng trưng:
Lâu đài kề nước, hoa có hướng dương
Thược dược khéo mừơi phần tươi tốt
Mẫu đơn khoe hết mực giầu sang
 Hay:
Cây bờ tuyết, sáng giong đủng đỉnh
Hái củi mây, hôm quảy xênh xang
( Nguyễn Hàng )
Phú dùng nghệ thuật trào phúng khi xã hội phong kiến suy tàn , và thời kỳ chống Pháp. Có khi  nhẹ nhàng, chơi chữ thanh mà tục, tục mà thanh, nhưng có khi trực diện, riễu cợt rõ ràng mạnh mẽ :
Đít ông cưỡi lừa
Mồm ông huýt chó…
Khốn nạn thân ông
Đéo mẹ cha nó!
     ( Nguyễn Khuyến )
Cách hạ vần của phú cũng rộng rãi. Có khi cả bài chỉ một vần hỏng, chõng, ngóng, bóng…( phú hỏng thi) . Lại có bài nhiều vần, như bài Mẹ ơi, con muốn lấy chồng phú: dại, phải, gái và dạ, quả , khá ( vần trắc) .
Có khi là vần bằng , như bài Thầy đồ đi trọ của Tú Xương dùng vần bằng : hành , ranh:
Thầy đồ thầy lề
Dạy học dạy hành
Ba quyển sách nát
Dăm thằng trẻ ranh…
Luật bằng trắc trong Đường phú được xác định ở những chữ cuối vế, và những chữ ngắt đoạn giữa câu. Nếu mỗi vế có một hay nhiều đoạn, thì cuối đoạn trên là bằng thì cuối đoạn sau phải là trắc hoặc ngược lại:
Tủi bút tủi nghiên( bằng )
Hổ lều hổ chõng ( trắc )
    ( Tú Xương )
Hoặc:   Sớm hàng hoa, thịt nạc, sáo thuôn
Trưa cá quả, thì là , nấu cháo ( Phú răn uống rượu)
***
Phú có nội dung giá trị hiện thực, nhân đạo, lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Phú có nhiều vẻ, khi khoa trương, tán tụng, tả cảnh tả tình, lời văn nhẹ nhàng bóng bẩy, mạnh mẽ hừng hực lửa căm hờn, u hoài, đau xót,  cũng có khi tình tứ, châm biếm, riễu cợt, đả kích.
Phú có lối kiến trúc kết hợp cân đối cân bằng, màu sắc cổ kính, âm thanh trong sáng, giai điệu nghiêm trang, hình ảnh huy hoàng tráng lệ, và luật lệ chặt chẽ.
Trong sự phát triển ngôn ngữ hiện đại, thiết tưởng  duy trì và khai thác loại hình phú cũng là làm cho phong phú tiếng Việt và tôn vinh nghệ thuật đặc sắc phương Đông và của nước nhà./.