Mùa thu. Nhìn Trăng Rằm mọc, đứng dưới Trăng Rằm sáng xanh như ngọc, có lẽ chẳng ai cầm lòng yên lặng được mà không vui với trẻ hôm nay, mà không nghĩ không nhớ về tuổi thơ của chính mình? Thật kỳ lạ! Để làm đẹp làm vui cho Mùa Thu thêm thanh sắc cùng hương vị, người phương Đông ta đã nghĩ ra cái lệ ngắm Trăng Rằm xem thời tiết và thế sự, sinh ra chuyện cổ tích Trăng Rằm cho trẻ con nghe, làm đèn giấy cho trẻ con rước, bày bánh quả cho trẻ trông trăng phá cỗ… nối dài Tết Trung Thu thành một phong tục dân gian cho muôn người háo hức, về lại tuổi thơ!
Vậy mà Trung Thu bây giờ, thật buồn và tiếc lắm thay những vẻ đẹp thơ ngây của những câu hát: Rinh rinh tùng rinh rinh và ánh sáng những chiếc đèn ông sao, con cá, trống khẩu… dưới trăng rằm dần dần bị nhạt nhòa, thưa vắng khỏi làng quê.
Thu bây giờ khác lắm thu xưa
Chợ đầy ắp đồ chơi hàng Trung Quốc
Kẹo bim bim bày trùm mẹt cốm
Trẻ rước đèn gọi di động cho nhau !
Nhớ hồi tấm bé, nhà cửa làng mạc tuy đơn sơ nhưng quê hương và tuổi thơ thật rộn ràng, ấm cúng. Thời ấy, người lớn và trẻ không biết nhiều cách làm gì có tiền và cũng không thể có nhiều tiền để mua đồ chơi, cũng chẳng có nhiều đồ chơi lạ mắt như bây giờ. Nhưng mùa nào thức ấy, anh em chúng tôi đều tự làm lấy mọi thứ để tạo sân chơi, để được đi rước đèn Trung thu. Như vót que, đẽo gụ, phất diều, nặn tượng đất, xoáy bi đá, làm súng diêm, cuốn pháo, gọi điện bằng ống bơ... Tuổi thơ nhễ nhại mồ hôi cứ trôi theo dòng sông làng, tóc khét nắng... Mùa gặt, đêm về chui vào lều rơm chất bằng những lượm lúa cha vừa đập xong. Nhất là những đêm có trăng, tuổi thơ chừng như không biết sáng mai. Tiếng vạc qua trăng ngỡ từ phương trời nào rớt xuống. Nằm giữa lúa ngủ quên, cứ tưởng mình là một Ông Vua!
Mỗi mùa Trung thu đến, mấy đứa trẻ chúng tôi lại hí húi chẻ nứa, làm khung kết đèn ông sao rồi lấy giấy màu dán lên. Giấy màu hồi đó làm toàn bằng giấy rơm, mỏng và giòn rất dễ rách, nên phải dán tỉ mỉ và cẩn thận. Thậm chí xé trộm cả giấy bản trong quyển sách nho của cha. Đứa nào kiếm được giấy bóng kính thì nhất bọn luôn. Hồ nấu bằng bột sắn giã nhỏ hoặc nhựa cây xoan đem ngâm rượu. Vừa làm khung vừa phất phất, dán dán… nhặng xị, chí chóe như một bầy ong. Vậy là thành đèn ông sao, đèn trống khẩu, đèn con cá, đèn lồng.... Phất được chiếc đèn, ngắm nghía, đứa nào cũng thấy đẹp và tự hào lắm lắm. Trước đó, hạt bưởi đã được thu lượm, bóc ra, lấy dây thép xâu lại, phơi khô dưới nắng hanh để dành làm bấc đèn. Từng xâu hạt bưởi chẳng khác gì những chuỗi cườm trắng trên cổ con chim gáy. Có đứa tinh khôn còn xâu hàng chuỗi hạt bưởi đem đánh đổi lấy những con dế chọi, chuồn vôi tím biếc, những chục cua đồng và cả những giành cỏ tươi cắt cho trâu… Có đứa lấy dầu hỏa nhồi giẻ đốt thử, ngọn lửa cháy bốc lên, vội thổi phù phù dập tắt…
Có mùa Trung thu, ngoài đèn ông sao, chúng tôi còn xuống “phố Cốc” làng Phong Cốc ngấp nghé, lân la cửa nhà ông Đồ Quý, ông Quyến Anh, Quyến Em-những thợ hàng mã nhà nghề truyền thống để học lỏm, rồi về bắt chước dựng đèn kéo quân.
Đến chiều hôm Trung thu không khí làng quê bắt đầu nhộn nhịp tiếng trống ếnh ngoài trường học, trong ngõ xóm. Chúng tôi háo hức không thể ngồi yên. Cả nhà ăn cơm sớm. Nhiều đứa cũng chẳng thiết ăn. Chập tối, đoàn múa sư tử của anh Mậu, ông Phó Thìn… bắt đầu đi dọc đường làng biểu diễn. Trống thúc giòn giã, thanh la gõ liên hồi. Người trong các ngõ ào ra. Trẻ con đi theo reo hò cổ vũ. Không gian mới lạ như ngày hội xuân ở đâu trẩy lại, vô cùng náo nhiệt. Tụi trẻ bé con để truồng chạy lông nhông. Nhìn thấy sư tử vờn nhau với Tôn Ngộ Không, Chư Bát Giới, Sa Tăng, cùng Chú Phị, Chú Tễu… chúng vừa sợ vừa thích. Lúc đám múa ở xa thì hò hét, vẫy tay rối rít; khi lại gần thì khóc ré lên, mặt xanh như gà con gặp cáo. Tụi nào bạo gan thì đi theo, nhao vào gần, nhưng chỉ dám sờ đuôi, vuốt râu sư tử rồi chạy rẽ ra, cười nắc nẻ.
Trăng lên đầu ngọn tre tỏa ánh sáng dịu mát hòa trong những làn gió thu mơn man. Các đám rước đèn bắt đầu từ sân trường, từ các ngõ xóm đổ ra đường cái. Trên tay mỗi đứa trẻ đều có một chiếc đèn ông sao, đèn trống khẩu, đèn con cá (đa số là tự dán) xếp thành hàng thành dãy chỉnh chện. trong lồng đèn nến được thắp lên sáng lung linh. Hạt bưởi khô đốt thành ngọn lửa, loang khói, khét mù. Nhưng đứa nào cũng trầm trồ thích thú. Tôi không sao quên được kỷ niệm một đêm trăng trung thu năm ấy, thằng Xoan nhờ cái Lợt quẹt diêm, (thời đó gọi là hòm đóm) châm vào ống bấc đèn ông sao đổ đầy dầu hỏa; ngọn lửa bùng lên đột ngột, cháy xém cả lông mày hai đứa. Chiếc đèn của nó loáng cái bị lửa liếm còn mỗi khung!
Đường làng hóa thành dòng sông, thành con rồng trên mình nó lấp lánh đầy sao chuyển động dưới những rặng cây. Các đám rước đèn gặp nhau, giao mặt, cười đùa tíu tít. Diễu qua các ngả đường làng, tất cả tập trung về sân trường học, sân đình hoặc sân nhà thờ họ để tham gia văn nghệ, hát múa rồi trông trăng, phá cỗ.
Hồi ấy tôi hay được ở trong đội văn nghệ lớp. Những bài hát diễn cây nhà lá vườn, nôm na không có nhạc nhưng cả thầy trò cùng thích lắm. Thằng Dinh đang nhảy sòn sòn sòn đô sòn… bỗng dải rút quần bị đứt đánh “phựt”. Thế là tô hô trên sân khấu… Cả sân được một mẻ cười vỡ đêm. Trăng lên cao, hội đèn phá cỗ tưng bừng, vui như dàn cá gặp mùa nước nổi. Vui quá! Vui đến tận bây giờ vẫn còn nuối tiếc!
Dương Phượng Toại