Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

TÂY PHƯƠNG MỸ NHƠN - CUỐN TIỂU THUYẾT VỀ NỮ GIỚI ĐẦU TIÊN Ở VIỆT NAM

Đặng Thị Thái Hà
Thứ sáu ngày 13 tháng 9 năm 2024 3:53 AM


12 | 12/09/2024
Baovannghe.vn - Tây phương mỹ nhơn, như thế, ghi dấu “công vỡ núi mở đường” (lời của Huỳnh Thúc Kháng) của Huỳnh Thị Bảo Hòa, dù được cho là viết ra để “cống hiến chị em bạn quần thoa mua vui trong khi phòng thêu rảnh việc, gác gấm thư nhàn”, nhưng đã bao quát được một hiện thực rộng lớn và đặt ra nhiều vấn đề về thân phận và vận mệnh dân tộc.
aa

Về tác giả Huỳnh Thị Bảo Hòa và cuốn Tây phương mỹ nhơn

Tây phương mỹ nhơn - Cuốn tiểu thuyết nữ đầu tiên xuất bản ở Việt Nam
Huỳnh Thị Bảo Hòa (1896 - 1982), bà được xem là người phụ nữ thuộc hàng tiên phong trong phong trào Duy Tân ở Việt Nam

Huỳnh Thị Bảo Hòa (tên thật là Huỳnh Thị Thái, 1896-1982), sinh trưởng tại làng Đa Phước, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Hòa Ninh, huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng). Bà là một trong những cây bút văn chương tiêu biểu giai đoạn đầu thế kỉ 20. Không chỉ có nhiều bài viết được đăng tải trên báo chí cùng thời như nhiều các tác giả nữ giai đoạn này, Huỳnh Thị Bảo Hòa còn được công nhận là nữ tiểu thuyết gia đầu tiên của Việt Nam (với tiểu thuyết Tây phương mỹ nhơn). Từ điểm nhìn nữ quyền luận, bài viết sẽ tiến hành đọc lại cuốn tiểu thuyết này của nữ nhà văn, qua đó, xem xét sự cất tiếng của nữ giới cùng những khả năng khơi mở mà các tác phẩm của bà mang lại trong tư duy về quyền và ý thức giới. Thêm vào đó, qua việc đọc lại tác phẩm của Huỳnh Thị Bảo Hòa, một tác giả sinh ra, lớn lên trong môi trường Hán học nhưng khi trưởng thành lại được hưởng bầu không khí Tây học, bài viết cũng nhắm đến việc chỉ ra những đóng góp của bà trong việc hiện đại hóa văn chương và sự dự phần của tiếng nói nữ giới vào đời sống đương thời nói chung.

Trong những hướng tiếp cận đầu tiên được đề xuất bởi lý thuyết nghiên cứu và phê bình nữ quyền, ngoài việc tiến hành “đọc lại” (re-reading) như một cách để khảo sát cách phụ nữ được mô tả và trình hiện (hay “hình ảnh nữ giới”) trong lịch sử văn chương để chỉ ra những khuôn mẫu và định kiến ẩn giấu đằng sau những trình hiện ấy, thì góc tiếp cận quan trọng thứ hai theo hướng nữ quyền luận là truy tìm lại văn bản của các nhà văn nữ, “khảo cổ” lại những tiếng nói nữ. Một trong những người đầu tiên khởi xướng việc tìm lại các văn bản của nữ giới và trao cho những văn bản ấy một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học là

Các cây viết nữ không nên được nghiên cứu như một nhóm cá biệt dựa trên giả định rằng họ viết giống nhau hay giống nhau trong lối viết đậm chất nữ tính. Dù vậy, nữ giới có một lịch sử đặc biệt đầy nhạy cảm để phân tích, trong đó có thể kể tới những góc nhìn phức tạp theo hướng kinh tế học về mối quan hệ của họ với thị trường văn học; tác động của những chuyển biến về chính trị và xã hội đến địa vị của từng cá nhân người phụ nữ, những hàm ý về khuôn mẫu ở nhà văn nữ, và những hạn chế trong tính tự chủ nghệ thuật của họ

Elaine Showalter, với phát biểu: “Các cây viết nữ không nên được nghiên cứu như một nhóm cá biệt dựa trên giả định rằng họ viết giống nhau hay giống nhau trong lối viết đậm chất nữ tính. Dù vậy, nữ giới có một lịch sử đặc biệt đầy nhạy cảm để phân tích, trong đó có thể kể tới những góc nhìn phức tạp theo hướng kinh tế học về mối quan hệ của họ với thị trường văn học; tác động của những chuyển biến về chính trị và xã hội đến địa vị của từng cá nhân người phụ nữ, những hàm ý về khuôn mẫu ở nhà văn nữ, và những hạn chế trong tính tự chủ nghệ thuật của họ”[1]. Cũng trong hướng tiếp cận này, các nhà phê bình nữ quyền luận phàn nàn rằng, việc tìm lại và xuất bản trước tác của nhà văn nữ chưa được coi trọng đúng mức, thậm chí có những khảo sát cho thấy việc đưa văn chương nữ giới vào chương trình học có một mức độ hạn chế đáng kể. Tất cả những nhận định trên đều có thể được vận dụng để nhìn lại trường hợp Huỳnh Thị Bảo Hòa. Trong mảng văn chương đầu thế kỉ, phần được chú trọng nghiên cứu cũng như được “chính thống hóa” và đưa vào chương trình, cho đến nay, vẫn đang thể hiện một sự “thiên vị” rõ rệt đối với các cây bút nam giới. Những cái tên như Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam, Nguyễn Tuân,... trong văn xuôi hay Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử,… đã trở nên phổ quát và gần như tạo thành những “tượng đài” kinh điển khi nhắc đến văn chương đầu thế kỉ XX. Trong khi đó, các tác giả nữ, dù đương thời đã tạo được dấn ấn riêng và có một khối lượng tác phẩm không kém phần đồ sộ như Huỳnh Thị Bảo Hòa, lại gần như bị lãng quên trong một khoảng thời gian dài. Cuốn Tây phương mỹ nhơn (1927) của bà, một cuốn tiểu thuyết ngay từ khi ra đời đã được nhiều người có tiếng tăm lớn trong làng báo làng văn thời đó đánh giá cao như Huỳnh Thúc Kháng, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, nhà văn-kí giả Bùi Thế Mĩ; thế nhưng phải chờ đến năm 2001, nhờ công của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, cuốn tiểu thuyết này mới được tái phát hiện và khẳng định vị thế của Huỳnh Thị Bảo Hòa như một cây bút nữ tiên phong. Hay, nói như Trương Duy Hy: “ông Ân đã làm cái việc khơi đống tro tàn thời gian để đưa ra ánh sáng người phụ nữ viết tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của nước ta mà bất hạnh bị người đời lãng quên bảy mươi năm qua”[2]. Nói khác đi, dòng mạch văn chương nữ giới thường bị đặt ở vị thế bên lề và những cây viết nữ quá dễ dàng bị bỏ qua, xem nhẹ. Thực hành tìm và đọc lại này, bởi thế, đóng vai trò như một thực hành “giải trung tâm”, bắt đầu từ việc giải bỏ những “kinh điển” đậm tính nam quyền trong việc lựa chọn và ghi nhớ. Trường hợp Huỳnh Thị Bảo Hòa, không chỉ thế, đúng như cách nói của Toril Moi, cho phép nhìn chủ thể viết trong những biến động phức tạp nhất về chính trị và xã hội của thời đại.

Tây phương mỹ nhơn - Cuốn tiểu thuyết nữ đầu tiên xuất bản ở Việt Nam

Bìa sách “Tây phương mỹ nhơn” – bản tiếng Việt, 1927; và bản tiếng Pháp, 2020.
Ảnh: Đoàn Ánh Dương.

Những biến động đầu thế kỉ 20 đã làm lay động tận gốc rễ cả một hệ thống niềm tin và hệ giá trị truyền thống cố hữu, đồng thời cũng tạo điều kiện cho sự ra đời của những hiện tượng mới chưa từng có. Sự sinh thành của những cây bút nữ hiện đại là một trong những hiện tượng như thế. Trường hợp Huỳnh Thị Bảo Hòa có thể cho phép quan sát sự chuyển dịch trong việc tiếp nhận hệ hình tri thức, sự đổi mới về quan niệm và một ý thức nữ quyền rõ rệt trong bộ phận nữ giới trung-thượng lưu những năm đầu thế kỉ 20. Là con gái của ông Huỳnh Phúc Lợi, một vị quan triều Nguyễn, bà được hướng theo nền Hán học từ khi còn thuở ấu thơ, nhưng trong quá trình trưởng thành cũng được tiếp cận và học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp, lại nên duyên với ông Vương Khả Lãm – Hàn lâm viện Đại học sĩ bấy giờ[3]; tất cả những “phông” văn hóa và gia đình ấy đã góp phần tạo thành không chỉ một cây viết nữ đầy tiến bộ, mà bên cạnh đó, cũng chính ở Huỳnh Thị Bảo Hòa, vẫn có thể nhận ra một sự “nặng lòng” đáng kể với các giá trị truyền thống.

cuộc chạm trán với phương Tây đã đặt xã hội và giới trí thức Việt Nam vào một tình thế vô cùng phức tạp, trong đó những ràng níu từ phía truyền thống, dẫu đang phải đối mặt với nguy cơ suy vong và bị giải thể, vẫn tỏ rõ sức mạnh cố kết của nó

Hay, nói theo cách của David Marr, cuộc chạm trán với phương Tây đã đặt xã hội và giới trí thức Việt Nam vào một tình thế vô cùng phức tạp, trong đó những ràng níu từ phía truyền thống, dẫu đang phải đối mặt với nguy cơ suy vong và bị giải thể, vẫn tỏ rõ sức mạnh cố kết của nó[4]. Chính sự lưỡng lự hay thái độ nước đôi này với truyền thống (dù ở chủ thể nam hay nữ), mà ở đây cụ thể là truyền thống quan niệm về phụ nữ, đã khiến cho các trang viết về nữ giới vừa có sự bứt thoát, nhưng cũng vừa hàm ẩn một tham vọng tái tạo hay tìm điểm tựa từ những mô hình truyền thống. Huỳnh Thị Bảo Hòa là một ví dụ như thế. Bà, như được ghi nhận, là nhân vật gắn liền với rất nhiều những dấu mốc “đầu tiên”: “người phụ nữ đầu tiên ở Đà thành cắt tóc ngắn”, “người phụ nữ đầu tiên sử dụng xe đạp đi lại trong thành phố”, “người phụ nữ viết tiểu thuyết đầu tiên”. Những hành động mà ở thời này được coi là nhỏ nhặt và nghiễm nhiên, nhưng đặt trong bối cảnh bà sống, lại mang tính cách mạng và khả năng thách thức đối với tất cả những mặc định và kì vọng thông thường về hình dung và chuẩn mực nữ giới. Ở đây, đương nhiên, việc nhắc đến đến nơi chốn “Đà thành” đã mang sẵn hàm ý về một bối cảnh cởi mở hơn cho sự thể hiện cá nhân cũng như sự bứt thoát khuôn mẫu giới truyền thống[5]. Thế nhưng, ở cuốn tiểu thuyết của mình, một trong những điều Huỳnh Thị Bảo Hòa hướng tới xác quyết khi xây dựng hình ảnh một thiếu phụ Tây phương là việc bảo tồn và đề cao những giá trị phương Đông về thuần phong mĩ tục. Những phân tích dưới đây về Tây phương mỹ nhơn, theo đó, sẽ không chỉ góp phần khẳng định vị thế của một tiểu thuyết gia nữ đầu tiên của Việt Nam, mà còn cho thấy sự kiếm tìm đối thoại bình đẳng với phương Tây từ một chủ thể nữ thuộc địa và một nỗ lực thương thỏa với truyền thống.

Tây phương mỹ nhơn – dụng bút theo một “nghề mới học” để khẳng định “tiết nghĩa”, “luân thường”: sức kéo của Nho học và phức cảm thuộc địa

Trong “Bài tựa” viết cho lần xuất bản đầu tiên của cuốn Tây phương mỹ nhơn, Huỳnh Thúc Kháng có nhắc lại lời bộc bạch của chính nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa khi cậy nhờ ông chắp bút viết lời đề tựa: “Tôi là con nhà học, cha làm quan đã về hưu, từ nhỏ có tánh ham học, mười mấy năm nay cái màn nữ học nước ta mới dở ra, thường hay sưu tập các sách các báo trước sau xem học, mà tánh thích nhứt là tiểu thuyết, nên đánh bạo dạn theo đòi, thử làm ra bản này, vẫn biết là một nghề mới học, sao khỏi cho lẽ cạn lời thô…”[6]. Điểm cần lưu ý đầu tiên có lẽ là sự nhấn mạnh trở đi trở lại của Huỳnh Thị Bảo Hòa về “sự học”. Việc học hay giáo dục cũng chính là mối lưu tâm hàng đầu của bà trong những bài diễn thuyết công cộng. Nếu giáo dục “là cánh cổng mở ra tự do, cơ hội, sự độc lập mà bất cứ ai cũng có quyền được bước qua” và điều các nhà nữ quyền, ngay từ những chiến dịch đầu tiên vào thế kỉ 19 đòi hỏi là “một nền giáo dục bình đẳng cho cả nam giới và nữ giới”[7], thì ở Việt Nam, chính Huỳnh Thị Bảo Hòa đã là một trong những nhà nữ quyền đầu tiên trực tiếp lên tiếng về việc “nâng cao trí thức của chị em phụ nữ, thực hiện nếp sống mới”, “hô hào chị em phụ nữ đi học chữ quốc ngữ”, “vạch ra cái lợi của người biết đọc biết viết”[8]. Chính môi trường chữ quốc ngữ và ảnh hưởng Tây học đã là cái nôi để những cây bút nữ như Huỳnh Thị Bảo Hòa xuất hiện. Bà được thụ hưởng một sự giáo dục hoàn toàn ngang bằng với lớp tinh hóa nhất của trí thức nam giới đương thời, và việc chủ động nhắc lại điều đó trong cuộc gặp mặt với Huỳnh Thúc Kháng gần như là một cách xác lập và tuyên bố một vị thế đối thoại bình đẳng. Các phản ứng mà cuốn tiểu thuyết nhận được từ phía những “tượng đài” trí thức nam giới đương thời, theo đó, có thể được nhìn như một sự “phê duyệt”, không chỉ về giá trị của một tác phẩm văn chương, mà còn về tính hợp thức của sự sinh thành một kiểu hình “nữ tiểu thuyết gia” hiện đại. Tính hợp thức ấy, với cả Huỳnh Thúc Kháng và Bùi Thế Mĩ, có thể lấy điểm tựa từ lịch sử: “tự nghĩ rằng: nữ giới nước ta, thuở xưa là xã hội vô học thế mà […] ngoài ra khuê tú như Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Diệu Liên công chúa đều là nữ sĩ lòng gấm

Nghĩ lại nước ta ngày xưa thiếu gì những tài tú khẩu cẩm tâm đã trổ ra trong những chốn phòng the gác gấm: kia như bà Huyện Thanh Quan, như có Hồ Xuân Hương, như bà Đoàn Thị Điểm

miệng thêu, phun châu nhả ngọc, không kém gì bạn mày râu trong làng văn” (tr.33-34); hay: “Nghĩ lại nước ta ngày xưa thiếu gì những tài tú khẩu cẩm tâm đã trổ ra trong những chốn phòng the gác gấm: kia như bà Huyện Thanh Quan, như có Hồ Xuân Hương, như bà Đoàn Thị Điểm” (tr.39)[9]. Điểm đáng lưu ý thứ hai là việc Huỳnh Thị Bảo Hòa tự ý thức về lối viết của mình như một thực hành “học một nghề mới”, bứt thoát khỏi truyền thống thi, ca, ngâm, vịnh. Và trước nghề mới xuất hiện này (nghề viết tiểu thuyết), cả các cây bút nam giới và nữ giới đương thời đều bình đẳng trước cơ hội thử tài[10]. Điều làm nên quan hệ ngang bằng này về cơ hội cũng như thành công giữa hai giới trong việc viết tiểu thuyết đầu thế kỉ, có lẽ, một phần đáng kể là nhờ vào sự nở rộ của xuất bản in ấn. Trong công trình Print and Power (In ấn và quyền lực), McHale quan sát, Việt Nam từ lâu đã có một giới tinh hoa biết chữ sử dụng những văn bản được viết, in, và khắc (văn bia). Tuy nhiên, cho đến cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX, vẫn có khá ít văn bản in được lưu hành ở Việt Nam. Chỉ bắt đầu từ thập niên 1920 mới có một số lượng lớn nhật báo, tạp chí, tạp chí minh hoạ, và sách, và những sản phẩm văn hóa này bắt đầu xác nhận đời sống công chúng và gia đình Việt. Cùng với sự tăng trưởng trong sản xuất báo chí và sách đọc, một bầu khí quyển công cộng được hình thành và phát triển. Đọc báo chí, sách, và truyền đơn đưa người ta vượt qua thế giới của sự tiếp xúc mặt đối mặt và kết nối họ với một cộng đồng độc giả rộng lớn hơn. Bầu khí quyển công cộng này vượt ngoài những trung tâm thành phố lớn. Hà Nội và Sài Gòn là những trung tâm chính, nhưng không phải duy nhất của việc sản xuất và tiêu thụ văn bản. Công chúng độc giả cũng đến từ những bối cảnh đa dạng phức tạp. Chính bầu khí quyển này đã khuyến khích và thúc đẩy sự cất tiếng nói của công chúng, đồng thời đưa tới sự lan tỏa rộng rãi của những tư tưởng mới như nữ quyền luận[11]. Sự phổ cập của in ấn và sự bùng nổ của báo chí đã đưa đến thành công cho Huỳnh Thị Bảo Hòa ở cả mảng tiểu thuyết và du kí. Trong điều kiện in ấn xuất bản hàng loạt dần phổ cập, nhà văn nam và nhà văn nữ có một mức độ cạnh tranh tương đương trong khả năng tiếp cận độc giả và được công chúng đón nhận.

Dù nói một cách công bằng, Tây phương mĩ nhơn vẫn đa phần tuân thủ những quy ước của tiểu thuyết chương hồi trung đại, cụ thể ở việc chia tiểu thuyết thành mười lăm hồi, mỗi hồi lại gắn với cặp thơ song thất thâu tóm diễn trình sự kiện, hay ở việc lối văn biền ngẫu vẫn còn là kiểu hành văn thống trị trong cuốn tiểu thuyết của Huỳnh Thị Bảo Hòa, ngay cả cách đặt tên nhân vật đôi khi cũng vẫn còn mang tính ước lệ (Trần-Háo-Danh, Lý-Đại-Ngốc); nhưng ở nhiều phần truyện, đã có thể thấy dấu ấn của việc đưa ngôn ngữ lời ăn tiếng nói hàng ngày vào tác phẩm – một đặc trưng khá tiêu biểu của thể loại tiểu thuyết (chẳng hạn: “Đó là Bạch-Lan an ủi cho vui lòng cha mẹ, chứ thiệt ra thì cũng phiền lắm”, tr.135; hay: “Hồ-Đại-Dương ngơ ngẩn đứng chờ cho nàng đi khuất, rồi mới chịu lên xe về nhà, trong lòng nghĩ ngợi rằng: Ta nói dối cho nàng tin đó thôi, hơi đâu mà cho người tìm kiếm Tuấn-Ngọc làm chi cho mệt […] như tên Tuấn-Ngọc kia bần tiện như rứa mà nàng không chê thay, huống nữa ta giàu có sang trọng như vầy, lẽ nào nàng lại không ưng”, tr.167). Có thể thấy, về mặt ngôn ngữ, nhiều đoạn trong Tây phương mĩ nhơn không chỉ bước ra khỏi hệ thống ngôn ngữ và cách diễn đạt tượng trưng ước lệ mà còn đưa được cả vào tiểu thuyết lời ăn tiếng nói đậm tính địa phương. Lối hành văn có nhiều điểm mới mẻ ấy của thể loại tiểu thuyết đưa lại một hiệu quả chuyển tải mà nói như Huỳnh Thúc Kháng: “không khác gì đàn bà con nít ngồi nói chuyện với nhau mà kỳ thực thì không phải những tay học thức rộng, lịch duyệt nhiều, cầm bút không viết được một chữ. Ấy chính vì thế mà tiểu thuyết mới thành ra một thứ lợi khí truyền bá trong xã hội” (tr.35).

“không khác gì đàn bà con nít ngồi nói chuyện với nhau mà kỳ thực thì không phải những tay học thức rộng, lịch duyệt nhiều, cầm bút không viết được một chữ. Ấy chính vì thế mà tiểu thuyết mới thành ra một thứ lợi khí truyền bá trong xã hội”

Vậy với việc lựa chọn thể loại tiểu thuyết, Huỳnh Thị Bảo Hòa hướng đến “truyền bá” những tư tưởng và quan niệm nào, và những tư tưởng ấy có gì mới hay có sự nối tiếp nào với truyền thống? Trước hết, cuốn sách được xuất bản năm 1927 cũng ghi dấu một điểm mốc về “sự đứt gãy giữa hai thế hệ 1907 và 1925” trong quan điểm về giáo dục thực nghiệp và cử nghiệp. Như Đoàn Ánh Dương phân tích, “những người

Tây phương mỹ nhơn - Cuốn tiểu thuyết nữ đầu tiên xuất bản ở Việt Nam
Thẻ Thực nghiệp Dân báo ghi tên thật của bà, Huỳnh Thị Thái. Ảnh: Trương Duy Hy.

trưởng thành từ các lò luyện tinh hoa cửa Khổng sân Trình” đã là một thế hệ hoàn toàn khác với những thanh niên “trưởng thành từ nhà trường phổ thông Pháp-Việt”. Thế hệ trí thức mới này đã “có một trải nghiệm khác hẳn”, một phần do “hấp lực của văn minh Âu Tây”, một phần vì “sự sinh thành nhanh chóng của trí thức Tây học do chính sách phổ thông có tính thực nghiệp khiến xã hội thuộc địa mới phôi thai còn không đáp ứng được nhu cầu của họ (mà căn bản trước nhất là công văn việc làm chẳng hạn), huống hồ là xã hội cổ truyền vốn chỉ dành cơ hội cho một số rất ít những người theo đuổi nền giáo dục cử nghiệp”[12]. Tuấn-Ngọc, chàng nhân vật chính của tác phẩm, là một đại diện tiêu biểu cho lớp thanh niên mới như thế. Dựa trên tình thế “nhơn gặp lúc giao thời, chữ nho không đắc dụng với đời, nên ông hương mới cho theo Tây học” (tr.45), việc “lên tỉnh” của Tuấn Ngọc thực chất là cách để vượt thoát khỏi “phạm vi cổng làng”, thứ đóng khung cả thế giới bên trong nó vào một sự ì trệ tách biệt với những bước tiến và chuyển xoay không ngừng của thế giới, của thời đại: “không còn biết có thế giới cạnh tranh, khoa học tiến bộ, và công trình kì dị vĩ liệt phi thường của nhơn loại là gì nữa” (tr.43). Dù việc theo đòi Tây học của Tuấn-Ngọc dở dang vì hoàn cảnh gia đình éo le, nhưng quan niệm về việc coi trọng “thực nghiệp” thay vì ham hố hư danh đã rất rõ ở Tuấn Ngọc. Trong trao đổi và khuyên nhủ của Tuấn-Ngọc với Trần-Háo-Danh và Lý-Đại-Ngốc, có thể thấy rất rõ sự coi trọng tinh thần tự lực, ý thức về việc làm những việc có ích và đóng góp cụ thể vào kinh tế: “còn như đem tiền của nhờ người ám trợ cho cầu lấy đỗ, hoặc cho lấy chỗ làm không lương, tôi dẫu nghèo quyết không làm điều đê tiện ấy, vì nghĩ tự thẹn lắm; phận tôi đã đành, còn như hai anh ruộng cả ao liền, tiền chum thóc vựa, ở nhà cũng phong lưu chán đi, nếu chi hai anh muốn danh vọng với đời thì đem tiền ra kinh doanh buôn bán, chấn hưng các nghề nghiệp cho to…” (tr.53).

Dù vậy, quan trọng hơn, như chính nữ tác giả xác định ngay từ tiêu đề tác phẩm, Tây phương mỹ nhơn thuộc thể tài “luân lý tiểu thuyết”. Hay nói đúng hơn, đây là cuốn tiểu thuyết “nêu gương”, nhắm tới chấn chỉnh những “luân thường đạo lý” đang có nguy cơ tan rã trong xã hội đầy biến động. Bên cạnh những dấu ấn thời đại (trong cách nhìn về nghề nghiệp, việc đăng kí làm lính Đông Dương sang giúp Pháp trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất hay “cuộc Âu-chiến đại-chiến-tranh”,…), Tây phương mỹ nhơn thực chất, không nằm bên ngoài “nền cảm hứng đạo lý trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn giao thời”[13]; và hẹp hơn, có thể xem như sự nối dài của dòng mạch truyện Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) hay Giọt máu chung tình (Tân Dân Tử, 1926). Cốt truyện, tương tự, cũng xoay quanh chuyện tình (kể từ lúc gặp gỡ, đính ước) của một cặp trai anh hùng-gái thuyền quên, trải qua bao sóng gió ly biệt gian nan trắc trở, nhưng cuối cùng, vì tấm lòng thủy chung son sắt giữ trọn thề nguyền, hai bên vẫn tìm lại được nhau, có một kết thúc êm ấm bên nhau. Thế nhưng, điểm đặc biệt của Tây phương mỹ nhơn nằm ở chỗ nhân vật nữ chính trong tác phẩm lại là một người con gái phương Tây (một cô gái Pháp). Cách xây dựng nhân vật này, trước hết, có thể được đọc như một sự khẳng định lòng tự tôn và vị thế dân tộc trong quan hệ với nước Pháp hiện thời. Để thấy rõ hơn tính cấp tiến và sự quyết liệt của Huỳnh Thị Bảo Hòa trong nỗ thiết lập một quan hệ “bình đẳng” với Pháp, cần lưu ý về tình trạng quan hệ thực dân-thuộc địa đã đặt người dân An Nam vào một vị thế bất công cay đắng lúc bấy giờ.

Từ khi người Pháp bảo hộ cho đến bây giờ, chúng nắm giữ hết thảy mọi quyền trong tay, muốn làm sống, làm chết ai cũng được. Tính mạng của muôn người nước Nam chẳng bằng một con chó Tây, uy danh của cả trăm viên quan lại không bằng một người đàn bà nước Pháp

Chẳng hạn, trong Tân Việt Nam, một cuốn sách được Phan Bội Châu chắp bút ở Nhật Bản, có đoạn: “Từ khi người Pháp bảo hộ cho đến bây giờ, chúng nắm giữ hết thảy mọi quyền trong tay, muốn làm sống, làm chết ai cũng được. Tính mạng của muôn người nước Nam chẳng bằng một con chó Tây, uy danh của cả trăm viên quan lại không bằng một người đàn bà nước Pháp”[14]. Trong hoàn cảnh đó, việc để cho một người phụ nữ Pháp tự nguyện kết duyên với một người lính thuộc địa sang phục vụ mẫu quốc thực sự là một sự phản kháng đáng kể về nhận thức và địa vị. Không chỉ thế, mục đích của Tuấn-Ngọc mộ quân sang Pháp là để “đến nước văn minh coi thử họ có ức chế hủ bại như nước ta hay không” (tr.61), và cuối cùng nhận ra, dù ở đâu, Tây hay ta, cũng đều có người tốt kẻ xấu, người trọng nhân nghĩa kẻ hám lợi danh. Cuốn tiểu thuyết, như thế, đối thoại trực diện với những định kiến và phân biệt của kẻ thực dân. Bạch-Lan trong tác phẩm là người “không bắt chước” những cô gái Pháp khác mà “đem lòng kì thị”, “khinh khi” lính thuộc địa; ngược lại, cô “có tư cách hoàn toàn, lính các nước coi bình đẳng như nhau” (tr.72). Việc Bạch-Lan phải lòng và muốn kết nghĩa trăm năm với chàng lính thuộc địa An Nam do vậy cũng gặp nhiều trắc trở. Những kẻ thượng lưu quyền quý bên Pháp thì miệt thị nàng vì: “lại đi thân thiết với một thằng ngoại quốc mạt hạng”, “chưa thấy một người con gái nào dại như thế” (tr.90). Những người “đồng bang” Pháp ở An Nam thì viện tới “thể diện quốc gia” để can ngăn nàng tìm chồng: “cô còn tìm kiếm làm chi, cho người An Nam họ cười thì thất thể diện chúng ta lắm” (tr.152), hay “bỏ quân nô lệ ấy khỏi thất thể diện đồng bào ta” (tr.156). Nhưng trước tất cả những thái độ bề trên, thượng đẳng ấy, Bạch-Lan chất vấn lại bằng cái nhìn phê phán. Nàng nhìn ra ở đó không chỉ “lòng kiêu căng” mà cả “dã tâm” (tr.157). Nhân vật Bạch-Lan, thực sự, là cách để Huỳnh Thị Bảo Hòa đối thoại và đòi hỏi một cái nhìn công bình hơn về vị thế của người dân và dân tộc An Nam.

Những chuyển dịch trong quan niệm về độ tuổi lấy chồng cũng được Huỳnh Thị Bảo Hòa kín đáo gửi gắm trong Tây phương mỹ nhơn, đặc biệt khi tả Bạch-Lan “tuổi vừa hai chín, nhan sắc xinh đẹp” (tr.74). Dù chỉ một chi tiết, nhưng cũng đủ để thách thức chuẩn mực về vẻ đẹp thì con gái cũng như kì vọng kết hôn mà dư luận áp lên người nữ từ rất sớm trong xã hội truyền thống. Việc xây dựng một nhân vật nữ Tây Âu thuộc dòng dõi “lá ngọc cành vàng” nhưng trong cơn binh lửa sẵn sàng lên đường tham gia Hồng-Thập-Tự giúp quân nhân bị nạn, thêm vào đó, cũng là một cách để tác giả liên tưởng và chất vấn ý thức trách nhiệm của chính giới nữ nước nhà (mà cụ thể hơn, là những người nữ thuộc tầng lớp trung-thượng lưu) trước vận mệnh dân tộc: “con gái nước văn minh khí khái như thế đó, lúc nước nhà hựu nạn, tấm thân bồ liễu không mang gươm ra trận, nhưng cũng chung một nghĩa vụ là hiến thân cho nhà nước. Đàn bà Âu-châu thì như vậy, còn đàn bà con gái nước Nam ta, thì các cậu ấm cô chiêu dễ ai chịu dời lầu son gác tía, mà đi làm những việc cực khổ hèn hạ như thế để trả nợ quốc gia hay không?” (tr.71). Không chỉ thế, mượn lời của nhân vật nam chính, Huỳnh Thị Bảo Hòa liên tục gửi gắm những trăn trở suy tư về phận nước, chẳng hạn: “nước tôi là nước mất tự do, quyền sanh sát trong tay mấy anh tai to mặt lớn, họ muốn làm sao thì làm, phận hèn mọn ngắn cổ sao kêu thấu!” (tr.79). Hay nhiều lúc lại cất lời than: “Ôi! Tấm thân nô lệ đi đâu cũng là nô lệ!” (tr.95).

tuy sinh trưởng ở nước tự do nhưng không lạm dụng chữ tự do như các người con gái khác. Cô trên thờ cha mẹ, việc thần hôn chẳng chút biếng khuây, còn vẽ phụng thêu rồng vẫn là một tay kim chỉ, tài sắc đã có một tánh hạnh lại gồm hai, chuyện ong bước gác để ngoài tai, duyên hương lửa đợi người tri kỉ

Trên tất cả, nhân vật Bạch-Lan, tuy là một cô gái phương Tây, nhưng lại được hết lời ca tụng như một mẫu mực của hình ảnh nữ giới theo quan hệ Nho giáo: “tuy sinh trưởng ở nước tự do nhưng không lạm dụng chữ tự do như các người con gái khác. Cô trên thờ cha mẹ, việc thần hôn chẳng chút biếng khuây, còn vẽ phụng thêu rồng vẫn là một tay kim chỉ, tài sắc đã có một tánh hạnh lại gồm hai, chuyện ong bước gác để ngoài tai, duyên hương lửa đợi người tri kỉ” (tr.74-75). Sau khi đã nên duyên với Tuấn-Ngọc, nàng cũng ý thức rất rõ về một kiểu “bổn phận” làm vợ (“xuất giá tòng phu”) nặng tính Nho giáo: “cậu về nước thì mẹ con tôi cũng đi theo, dầu vạn hải thiên sơn cũng không dám ngại, đó là bổn phận của tôi, can chi cậu phải buồn?” (tr.121). Tới lúc lâm vào cảnh ly biệt, trước lời khuyên của cha mẹ về việc cải giá, Bạch-Lan lại nhất quyết từ chối, và viện lí lẽ về quan niệm “chữ trinh” đậm màu sắc phương Đông: “Gái trinh chẳng lấy hai chồng, nếu Tuấn Ngọc không qua thì con nguyện ở vậy trọn đời mà thôi” (tr.139). Không chỉ thế, điều khiến Bạch-Lan cảm động nhất khi sang với Tuấn-Ngọc là được tận mắt chứng kiến sự hi sinh, tần tảo của người phụ nữ An Nam: “gặp những người đàn bà đi buôn bán nặng nề, khó nhọc mà mặt vẫn vui vẻ như thường, thì sực nhớ lại khi còn ở bên Pháp đôi khi Tuấn-Ngọc nói chuyện đức hạnh của người đàn bà Đông phương. Mượn cái nhìn cúa Bạch-Lan, nhà văn dường như muốn dội một cách nhìn ngược lại về phụ nữ phương Tây – những người đàn bà: “ăn trắng mặc trơn trai lơ trắc nết” (tr.189). Tính luân lý của cuốn tiểu thuyết được thể hiện còn rõ hơn qua lời đối thoại của Tuấn-Ngọc: “trước kia đàn bà nước tôi họ còn biết lấy tam tòng tứ đức làm quy tắc […] Từ khi tang thương biến cải, quí quốc sang nước tôi và đem gieo cái hạt giống văn minh, vun chồi Âu hóa chưa tới nơi tới chốn, làm cho những kẻ hấp thu cái văn minh dở dang ấy mà trai thì biến đổi cả luân thường, giá lại phá tan nền luân lý” (tr.190). Không phản đối “cuộc Âu hóa”, điều Huỳnh Thị Bảo Hòa nhấn mạnh là sự “Âu hóa nửa vời”, văn minh “chưa tới nơi tới chốn” đã gây ra bao “thói hư” làm “di hại cho phong hóa”. Trong khi chính Bạch-Lan, một đại diện tuyệt vời của thế giới văn minh ấy, lại không chỉ hội tụ tất cả những đức hạnh chuẩn mực nhất theo quan niệm Nho gia (về đạo hiếu, về lòng trọng nghĩa khinh tài, một mực sống theo lẽ “tam tòng”). Xây dựng nhân vật Bạch-Lan, Huỳnh Thị Bảo Hòa dường như muốn “Việt hóa” hay “phương Đông hóa” cả một nhân vật phương Tây, với khung Nho giáo làm chuẩn. Dù vậy, việc khép lại tác phẩm bằng cách để hai nhân vật chính quay trở lại Pháp lại chứa chở một phức cảm thuộc địa khác. Ở lại An Nam, trong trường hợp này, vừa trái luật, vừa dễ “mất thể diện” cho Bạch Lan (tr.191). Việc quay trở lại Pháp, hay ổn định gia đình ở một nước “văn minh hoàn toàn” dường như dễ dàng và hứa hẹn hơn. Sự bình đẳng Pháp-Việt lúc này, được thể hiện qua sự sẵn sàng hòa trộn về chủng tộc (“Vàng trắng chung nhau giống mới xinh”, tr.196). Tác phẩm khép lại bằng lòng tự tôn chủng tộc cùng sự tin tưởng vào một quan hệ bình đẳng và hài hòa tốt đẹp: “Mẫu quốc vững bền trong thế giới/ Nam lai báo đáp ắt không khinh”. Phức cảm thuộc địa, một lần nữa, nằm ở một cảm giác đầy mâu thuẫn trong quan hệ chủ nhân-nô lệ và ước muốn một sự hợp tác bình đẳng, ở sự lưỡng lự giữa việc khẳng định sự vững bền và phổ quát của giá trị truyền thống với đời sống “Tây Âu” văn minh. Quan niệm cộng tác bình đẳng của Huỳnh Thị Bảo Hòa (“Tây Nam hiệp lại người thêm mạnh”) có lẽ cũng chịu ảnh hưởng từ lý tưởng “Pháp-Việt đề huề” được Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh ủng hộ. Tây phương mỹ nhơn, như thế, ghi dấu “công vỡ núi mở đường” (lời của Huỳnh Thúc Kháng) của Huỳnh Thị Bảo Hòa, dù được cho là viết ra để “cống hiến chị em bạn quần thoa mua vui trong khi phòng thêu rảnh việc, gác gấm thư nhàn”[15], nhưng đã bao quát được một hiện thực rộng lớn và đặt ra nhiều vấn đề về thân phận và vận mệnh dân tộc.

Đặng Thị Thái Hà | Báo Văn Nghệ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Lê Tú Anh (2015), “Tây phương mỹ nhơn trên nền cảm hứng đạo lý trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn giao thời”, sachhay.org.
  2. David Marr (1984), Vietnamese Tradition on Trial: 1920-1945, University of California Press.
  3. DK [Dorling Kindersley] (2019), Feminism Is…, DK Books, England.
  4. Thy Hảo Trương Duy Hy – biên soạn (2003), Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa – Người phụ nữ viết tiểu thuyết đầu tiên, Nxb. Văn học.
  5. Kyra Kral (2020), A Brief History of French Feminism, feministsinthecity.com.
  6. Toril Moi (2002), Sexual/Textual Politics. Feminist Literary Theory, Routledge.
  7. Nhiều tác giả (2020), Phong Hóa thời hiện đại, Nhà sách Tao Đàn & Nxb. Hội nhà văn.
  8. Võ Văn Sạch – dịch, (1989), Tân Việt Nam của Phan Bội Châu, Bản điện tử, Cục lưu trữ nhà nước Hà Nội.
  9. Shawn McHale (1995), "Printing and Power: Vietnamese Debates over Women's Place in Society, 1918-1934", in trong Keith Taylor and John Whitmore, eds., Essays into Vietnamese Pasts, Cornell University Press.

[1] Dẫn theo: Toril Moi (2002), Sexual/Textual Politics. Feminist Literary Theory, Routledge, tr.70.

[2] Dẫn theo: Thy Hảo Trương Duy Hy (2003), “Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa – Người phụ nữ tiên phong trong phong trào Duy Tân ở Việt Nam”, in trong Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa – Người phụ nữ viết tiểu thuyết đầu tiên, NXB. Văn học, tr.15-16.

[3] Xin xem: Thy Hảo Trương Duy Hy (2003), Tlđd, tr.9-10.

[4] Xem thêm David Marr (1984), Vietnamese Tradition on Trial: 1920-1945, University of California Press.

[5] Ở đây muốn lưu ý lại về việc trong lịch sử, Đà Nẵng là nơi vào tháng 9 năm 1958, thực dân Pháp nổ súng tiến công, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Việc Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam, một mặt khiến vùng đất này trở thành nơi đầu tiên của nước Việt phải đối mặt với họa xâm lăng từ một nước phương Tây, mặt khác cũng là nơi đầu tiên gặp gỡ, va chạm với một nền văn minh khác. Điều ấy có lẽ cũng đã đưa lại một tinh thần cởi mở hơn và sự bứt thoát sớm hơn ở những con người nơi này (Đà Nẵng hay Tourane) so với các cộng đồng ở những vùng đất khác như Bắc kì và các phần khác ở Trung kì vào cùng thời điểm đó.

[6] Dẫn theo: Huỳnh Thúc Kháng, “Bài tựa”, in lại trong Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa, Thy Hảo Trương Duy Hy (biên soạn), Sđd, tr. 32.

[7] DK [Dorling Kindersley] (2019), Feminism Is…, DK Books, England.

[8] Dẫn theo Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa, Thy Hảo Trương Duy Hy (biên soạn), Sđd, tr. 11.

[9] Dẫn theo Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa, Thy Hảo Trương Duy Hy (biên soạn), Sđd, tr. 11.

[10] Như nhận định của Huỳnh Thúc Kháng: “Tiểu thuyết ở nước ta đang còn trong lúc nảy chồi mọc mống, trong đám mày râu cũng mới xuất hiện một đôi bản như ‘Quả dưa đỏ’, ‘Cảnh thu di hận’…” (“Bài tựa”, Tlđd.)

[11] Xin xem: Shawn McHale (1995), "Printing and Power: Vietnamese Debates over Women's Place in Society, 1918-1934", in trong Keith Taylor and John Whitmore, eds., Essays into Vietnamese Pasts, Cornell University Press. Tham khảo thêm bản dịch của Hồ Liễu đăng trên Academia.

[12] Theo Đoàn Ánh Dương, “Văn chương (và) kiến tạo xã hội: Một chặng đường “phong hóa” của kiến tạo xã hội”, in trong Nhiều tác giả (2020), Phong Hóa thời hiện đại, Nhà sách Tao Đàn & Nxb. Hội nhà văn, tr.16.

[13] Xem thêm: Lê Tú Anh (2015), “Tây phương mỹ nhơn trên nền cảm hứng đạo lý trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn giao thời”, sachhay.org.

[14] Dựa trên thông tin từ hai bản dịch: Tân Việt Nam (Võ Văn Sạch dịch, Bản điện tử, Cục lưu trữ nhà nước Hà Nội, 1989) và bản dịch của David Marr (1971) trong Vietnamese Anti-Colonialism 1885-1925, University of California Press.

[15] Trước Giả Chí, “Tiểu dẫn”, in trong Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa, Sđd.