Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

CÓ MỘT NHÀ THƠ NGUYỆT LÃNG

Thái Quốc Mưu giới thiệu
Thứ hai ngày 5 tháng 6 năm 2017 3:41 PM



Lời giới thiệu CỦA THÁI QUỐC MƯU




Nguyệt Lãng tên thật Nguyễn Văn Thẩm. Nhà thơ Hoa Mộc Lan gọi đùa: “Người thì mập ù mà lấy bút danh mỏng dánh”.

Ông là Sĩ quan, thương binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Nguyệt Lãng làm báo, viết văn, làm thơ trước tháng 4-75. Hiện nay viết văn, làm thơ là nghề tay trái, với tiền nhuận bút rẻ mạt. Ruộng rẫy là nghề chính.

Ông bán chữ nghĩa, nhưng không bán danh dự. Nghèo nhưng vẫn giữ chí khí kẻ sĩ.

Những tên tư bản mới thừa tiền muốn có danh, thường mua văn, thơ ông. Làm xong bài thơ ông bán đứt cho họ - tất nhiên để tên tuổi của kẻ mua, để chúng có chút “văn chương, thơ thẩn” lòe người. Tuy bán chữ, nhưng, giống như hầu hết những Văn Thi Sĩ có sỉ diện, tuyệt đối Nguyệt Lãng không nhận tiền thuê viết để ca tụng bất cứ ai. Ở trong nước, nhiều Nhà văn, Nhà thơ giống như anh, buộc lòng phải bán chữ nghĩa để mưu sinh.

Chúng tôi gặp nhau nhiều lần, bản chất thật của ông hoàn toàn khác biệt với giọng thơ “cà tửng”, khi ông châm chọc thiên hạ.

Thơ Đường của ông là tuyệt bút, dường như không đối thủ. Chữ nghĩa chân quê mà rất mới, lạ, giàu hình tượng và ý tưởng.

Ngoài đời Nguyệt Lãng nói năng nhỏ nhẹ, khôi hài, hay “khều” nhẹ đối tượng.

Nguyệt Lãng là người con đại chí hiếu, tuổi bảy mươi, nhưng khi mẹ nằm nhà thương ông đút từng miếng ăn, miếng nước, tối trải chiếu nằm dưới đất bên giường mẹ để chăm lo.

Nguyệt Lãng quê ở Bình Đại, Bến Tre. Sau tháng 4/75, trôi về vùng kinh tế mới Minh Hưng, Bù Đăng, Bình Phước.

Cuối năm 2012, anh phát bạo bệnh (ung thư bao tử). Sau hai năm chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, ngày 1-1-2014, nhà thơ Nguyệt Lãng đã ra đi để lại nỗi tiếc thương trong lòng bè bạn và những ai biết đến thơ anh.

Nguyệt Lãng, tôi cùng hai bào đệ Văn thi sĩ Kha Tiệm Ly (Thái Quốc Tế) và Soạn giả cổ nhạc ALý Phượng Tuyền làn bạn chí thân của anh. Chúng tôi tự nghĩ không thể để thơ anh bị mai mộ và phải có trách nhiệm phổ biến một số bài thơ anh đến quần chúng.

Xin quý độc giả xem đây là việc làm chân thành của chúng tôi dành cho Nguyệt Lãng - người bạn tài ba, hiền hòa của đã sớm bỏ chúng tôi về cõi vĩnh hằng.

RAU ĐẮNG ĐẤT

Nguyệt Lãng



Trời mưa nước ngập ruộng sâu

Cá đồng về hội rủ nhau nhảy hầm

Mưa là mưa lũ mưa dầm

Hẹn mùa, rau đắng mọc quanh thềm nhà…

Tộ cá rô kho,

Tô canh rau đắng…

Đượm làm sao tình nghĩa nhà quê

Nhớ làm sao thuở còn bé bỏng

Nhà ở xa trường qua mấy nhịp cầu tre

Bấm ngón chân chai bờ đất ruộng

Trời mưa trơn trợt lối đi về…

Tới cổng,

Mùi cá kho đã dậy

Lạnh cóng tay, cơn đói réo trong lòng

Em với chị vừa đi vừa chạy

Cùng tranh nhau kịp để… ngồi mâm!

Em ngồi bên cha,

Chị ngồi cạnh mẹ

Bới chén cơm đầy và đua cho lẹ

Hạnh phúc reo mừng như tiếng chim ca.

Cá rô non nấu canh rau đắng đất

Là tình thương bồi đắp mãi không tròn

Là những buổi cha dầm mưa khai ruộng nước

Quần vo cao,

Áo bà ba rách nách

Điếu thuốc vồng ngấm nước tắt, lạnh run...

Tay rổ xúc

Vai đeo đụt mướp

Lũ đĩa trâu thèm máu hút bầm chân!

Là những buổi trời vui mây dẫn gió

Trôi lang thang không biết đến phương nào

Chiều dâng hương cuồn cuộn tiếp chân nhau

Trên ruộng thấp bầy cò bay trắng xoá

Những khi nhàn hạ

Mẹ nhổ rau đắng đất

Đốt lấy tro lắng nước gội đầu

Gió thật hiền lay lá trúc lao xao

Mái tóc chị dài êm như sóng mạ

Mẹ xăm xoi bắt chí

Mẹ chăm chút chải gầu

Xức dầu dừa óng mượt

Cột đuôi gà nhỏng nhảnh đằng sau

Mẹ vuốt tóc chị trầm trồ khen đẹp

Ôi! dòng tóc hiền thắm nghĩa cù lao!

Mười lăm năm,

Thời gian con đủ lớn

Và tóc mẹ trải màu bông bưởi bông cau

Cha lưng còng như tre gặp gió

Cho lòng con nặng một niềm đau!

Chị theo chồng về nơi xứ lạ

Em linh đinh rày đó mai đây

Thuở nhỏ mưa dầm băng mấy ruộng

Bây giờ mưa ngại bước chân đi!..

Chị về bên ấy,

Ơ hờ gương lược biếng xăm xoi

Tóc chị rối nù hong mùi khói bếp

Gió dẫn mây trôi nhìn chỉ ngậm ngùi

Đường về biệt mù

Chồng con bận bịu,

Nơi quê xưa thung đường ươn yếu

Mà nhớ thương như thả tóc lên trời...

Em lang thang đầu sông cuối bãi

Thèm một bữa cơm dưới mái gia đình

Nhưng dĩa cá kho mặn mùi nhân ngãi

Tô canh ngày nào cũng đắng vị công danh!

Tộ cá rô kho,

Tô canh rau đắng…

Đời nhiều lận đận

Nên mất rồi thời thơ dại dấu yêu

Đã hết rồi thời tan học nghêu ngao

Câu hát cũ bây giờ nghe nuối tiếc

Khi mây trắng lưng trời bay mù như tóc

Gió vờn trên lá cỏ

Và đường đời sự nghiệp trắng đôi tay…

Đêm nhà trọ chập chờn giấc điệp

Tình hoài hương ray rức ngủ không yên

Tiếng võng ai kẽo kẹt

Giọng ru hời buồn điệu Vân Tiên:

“... Trời mưa nước ngập ruộng sâu

Cá đồng về hội rũ nhau nhảy hầm

Mưa là mưa lũ mưa dầm

Cho rau đắng đất mọc quanh thềm nhà!”.

Mười lăm năm,

Bao lần gió nam non thổi lòn hang dế

Em đi từ ấy,

Chân ruộng đồng chưa mòn gót phiêu linh

Ăn quán ngủ đình,

Nước sông gạo chợ...

Bao lần đau những cuộc tình tạm bợ

Bao nhiêu lần làm khách lữ qua sông!

Chợt giựt mình, trẻ nhỏ gọi bằng ông

Bỗng nghe nhớ về cố thổ...

Nhớ rau đắng nấu canh

Nhớ con cá rô kho tộ

Nhớ chị tôi theo chồng năm lên mười sáu

Tóc cột đuôi gà… khóc lúc vu qui!

Chị trách hờn... cha mẹ đuổi chị đi

Thân con gái ở nhà ngoài, ăn cơm nguội.

Con chim đa đa kêu đâu bờ bụi

Thương cha mẹ già ươn yếu chẳng ai lo...

... Chị gói một nắm tro

Dặn em gội đầu cho mượt

Xức dầu dừa cho mướt

Đừng để mủn vùa khô khốc rễ tre..!

Mười lăm năm,

Mới hiểu lời chị dặn

Thì đã bao lần mấy dề rau đắng

Mọc quanh thềm nhà... trỗ bông trắng rồi... khô!

Đã mấy mùa nước ngập chân đê

Con cá rô mấy lần ra sông lớn

Cha không còn dầm mưa thăm ruộng

Không còn ai giành nữa chuyện... ngồi mâm!

Bao năm dài không một lời thăm

Thôi thì kể như nước sông chảy ra biển cả

Thằng em nhỏ tóc vẫn chừa ba dá

Như mủn vùa mẹ gọt, lúc lên ba?

Con rô đồng ôm trứng tháng mưa

Chờ đến lúc thả con vê ruộng

Chị ngồi nhớ mỗi chiều mỗi sớm

Thả nỗi buồn theo lọn tóc bay…

Một hôm chị ngồi ngạch cửa bấm lóng tay

Rồi chị khóc một mình...! Không đếm nữa...

Buổi trưa nồng gió nồm ru nắng hạ

Khói đốt đồng làm mắt chị cay.

Từ ngày em làm mây

Lang bạt giang hồ khắp ngã

Bặt tin nhạn cá

Có còn nhớ đất, thương quê?

Như ngày lặng lẽ ra đi

Em âm thầm trở lại

Vừa thương em, chị vừa ái ngại

Ba mươi năm, như thể một ngày…

Vẫn rám đen như ngày trốn học

Đi mò cua bắt ốc

Giũ trứng kiến vàng câu con cá rô non!

Chị ngồi ngạch cửa liếc mắt nhìn em

Đứa em xưa có gì ngờ ngợ

Quần áo bận nửa quê nửa chợ

Chút giang hồ, chút vị quê hương!..

Chị ngồi kế bên...

Nhìn em ăn cơm mà khóc

Lại bấm lóng tay, lại chùi nước mắt.

Cũng tô canh rau đắng đất

Cũng tộ cá rô kho…

Lòng chị như cục than vùi dưới lớp tro

Gió đòi khêu ngọn lửa.

Chị lại ngồi ngạch cửa

Biểu em xích lại gần hơn

Chị ngập ngừng đưa ngón tay run

Lượm sợi tóc sâu ở trên vai áo.

Bây giờ chị gọi em bằng cậu

(Lẽ ra tiếng ấy,

phải kêu từ lúc chị theo chồng..!)

Ôi! con đò đã xa biệt bến sông

Chị cũng thấy mình ngượng nghịu!

Sợi tóc sao bạc phếu?

Đâu phải tóc sâu,

Mà vì bao lâu mưa dải nắng dầu

Qua bao tháng ngày luân lạc

Hai chị em mái đầu đều bạc

Hai chị em cũng già như nhau..!

Nhớ ngày nào té nước cầu ao

Hát khúc đồng dao cùng cười khùng khục...

“... Chị em (người) ta như hoa dâm bụt

Chị em mình như cục… cức trôi!

Cục cức trôi, người ta còn vớt

Chị em mình như ớt chín cây...”

Không hẹn mà cùng bấm lóng ngón tay

Hai số dư không biết đường nào đếm..!

Em muốn kể quãng đời lận đận

Ba mươi năm dài bao nỗi nhớ mong.

Ngày về nhà chị

Ngủ đêm đầu tiên

Nghe rạo rực không thể nào yên giấc

Dưới mé thềm rêu mọc đầy rau đắng đất

Con dế mèn thôi kể chuyện phiêu lưu

Nén tiếng thở dài

Sợ rung giọt đèn lu

Muốn được ngủ say trong vòng tay chị

Lời trách móc sao y như mẹ

Cái hồi còn thơ trẻ bên nhau!

Ai buộc đời mình vì một cọng rau

Ai khôn lớn qua cầu đi hút bóng

Nhìn quãng đồng xa một làn khói trắng

Cũng bâng khuâng nhớ lắm quê mình

Bỗng nghe thèm rau đắng nấu canh!

Biết tìm nơi đâu khung trời kỷ niệm?

Những chiều hoàng hôn tím

Những buổi dầm mưa đi học lạnh run!

Những buổi mưa dầm

Cha giắt đụt mướp trên lưng

Bắt con cá đồng ngược nước

Bên chái hè mưa tạt

Mẹ hái từng cọng rau đắng đất nấu canh.

Để nỗi nhớ vây quanh

Tóc trên đầu đã bạc

Chân giang hồ bỗng dưng chùn bước

Nghe giữa hồn rau đắng đất mọc xanh!

Nguyệt Lãng (1972)

XEM SƯ CẢ CHƠI CỜ

Sư nói, đốn tu thì đốn ngộ

đời người như ngủ trọ gốc hoè

bây giờ xăng cộ lên cao quá

sư mỉm cười chấp cả đôi xe!

Sư nói, tiệm tu là tiệm ngộ

vội vàng chi mà chạy lanh chanh

dưỡng quân ba năm dùng một bữa

sư khoát tay, con mã để dành!

Sư nói, chấp nê là chấp khổ

loanh quanh trong vô lượng hải hà

nếu khi đại pháo canh tọa độ

có ích gì, sĩ tượng quanh ta

Sư nói, ác lai thì ác giả

bước qua sông trong lúc cùng đường

màu lau trắng nhuộm dòng Dịch Thủy

đâu có cần con chốt mang gươm

Sư nói, thiện tâm thì thiện ngộ

đời an nhiên ắt sống vô lo

cuộc cờ sấp ngửa thêm ván nữa

sư loay quay còn khách ngủ khò!

MẸ QUÊ

Hạt gạo cõng đắng cay đời mẹ

bàn chân chai nứt nẻ phèn chua

như rẽ mạ đống sâu mẹ cấy

Các con thàng gié lúa đi xa.

Làm chiếc lá theo dòng phiêu bạt,

đời gian nan cơm áo gạo tiền.

nhánh lúa mọn làm đòng mẩy hạt

cũng xa rời gốc rạ thiêng liêng.

Mỗi một năm tìm về chốn cũ

đủ hay chưa nợ đất vô cùng...?

huống hồ chi có năm không nhớ

quay trở về đồng đất quê hương

Tôi biết tôi là người bạc bẽo

hạt giống gieo vay mượn đất người

đã lâu lắm chẳng về thăm mẹ

để bây giờ gié lúa mồ côi!

CON ĐÒ TUỔI THƠ

Nhà mình cách chợ làng xa

mẹ tôi gánh cải vượt ba quãng đồng

phải qua cả một con sông

nhỏ nhoi giữa chốn mênh mông… là đò!

Mỗi ngày hai lượt mẹ qua

còn tôi mấy lượt vào ra ngóng chờ

quà hàng tấm bánh mẹ cho

với tôi là cả tuổi thơ ngọt ngào

Bờ sông chẳng phải cầu ao

đò giang nước lũ dòng sâu đắm rồi!

những ngồng cải đứng mồ côi

mẹ tôi đi chợ. Và thôi! chẳng về...

Cuộc đời đẩy tôi xa quê

tôi đi mà cũng ít khi nhớ làng

chỉ còn một chiếc đò ngang

tôi mang theo mớ hành trang đời mình

Những chiều gác vắng buồn tênh

là tôi thấy luống cải xanh trổ ngồng

con đò chìm giữa mênh mông,

Mẹ ơi! đi chợ sao không đợi đò?

MỘT MÌNH VÁ ÁO.

Chiếc áo một ngày không hẹn, rách

vụng về sợi chỉ mấy đường may

cây kim sứt mũi đâm vào vải

những tiếng buồn thiu giữa ngón tay!

Con chim bìm bịp gù trong lá

ai giấu niềm đau ở cuối vườn

ta giấu niềm đau nơi mảnh vá

mảnh vá quàng như một vết thương!...

ĐẤT ĐẮNG

Ôm cuộc đất bao năm vẫn cực

được nồi khoai thúng lúa trần thân

nhớ mùa hạn bồn bồn rát ruột

thương cọng bìm chạy lũ hụt chân!

Mẹ gánh nước còng lưng tưới cải

cả đời chưa ra khỏi mương vườn

con khôn lớn sống nơi thành thị

ngày mỗi rời xa chốn quê hương.

Đất không thể níu chân người trẻ:

“cố giữ làm chi khổ tuổi già,

thôi hãy bán cho con làm vốn

bề gì thì đã có con lo!!!”

Con thành đạt mẹ mừng khôn xiết

dù chẳng quen cuộc sống thị thành

mua mớ rau xanh mà xót ruột

tiếc mương vườn, thứ ấy quanh năm...

Đi đâu cũng thấy người xa lạ

cũng thấy ngùi thương cảnh dưới quê

tết nhớ mả mồ không ngủ được

ngồi xe hơi - chẳng có nơi về!

ĐÀN BÀ QUÊ LŨ

(Để thương những cảnh đời khốn khổ

trong cơn lũ miền Trung)

Lũ tràn ngập bến sông quê

núi cao một sớm đã về với sông…

chị tôi tất tả tìm chồng

biết đâu đất lấp hay dòng nước trôi?

Xuồng ghe cũng mỏi tay rồi

bàn chân nhão mấy vũng bồi phù sa...

ba ngày tìm xác không ra

chị tôi bỏ bữa cũng ba ngày liền!...

Xão bùn gạn chút niềm tin

cỏ cây, cát đá lấp chìm xác anh?

Núi non quay mặt đã đành

Con song giờ cũng trở thành lạ xa

Không còn xác để làm ma

chị tôi ngồi khóc đến loà con ngươi!

Thơ Nguyệt Lãng đầy ấp tình quê, tình ngườøi như thế, nhưng khi anh “khều” thì “đâm thẳng mũi nhọn” vào tim người khác:



VẶT LÁ MAI!

(tặng Liêu Tiên Sinh Thái Quốc Mưu)

Mặc lá còn xanh, mặc lá già

Tới giờ tớ cũng lật mầy ra

Bón dồn cho gốc giương chồi rễ

Tưới thúc cho cành ló nụ hoa

Nầy thế phong nghinh hình uốn éo

Kia tầng thác đổ nước tuôn sa

Nghề chơi tuy cực nhưng đành ráng

Để mấy ngày xuân mới đậm đà.

LẤY VỢ Ở TUỔI 73

(tặng Liêu Tiên Sinh & Nghệ sĩ Sân Khấu, Điển ảnh Lý Bạch Huệ)

Mình có trầu cay, tớ có vôi

Đường tình ta sẽ bước chung đôi

Chớ chê ván mục thuyền trơ đáy

Đừng kể xe cùn lốp hết hơi

Rượu nhạt hâm lâu rồi nóng lại

Thịt bèo ướp khéo cũng thơm thôi!

Hai ta cùng đứng bên bờ vực

Còn tiếc chi sông chuyện lở bồi!..

VỀ THA LA

(tặng Liêu Tiên Sinh & Nghệ sĩ Sân Khấu, Điển ảnh Lý Bạch Huệ)

Trên đỉnh Bà Đen nắng mới hừng

Chim chuyền còn ngủ dưới triền bưng

Đồng xa đang ủ rơm làm nấm

Xóm dưới còn mài mát chẻ đưng

Mấy mẹ lom khom phơi đậu đỗ

Một bà lọm khọm bán chè thưng

Nghe nàng (Lý) Bạch Huệ nằm ca cổ

Bỗng thấy Tha La đẹp quá chừng.

Nguyệt Lãng


Nhà bình luận văn học, nhà thơ Châu Thạch – một người bạn văn học chưa từng hội ngộ Nguyệt Lãng, đã:

KHÓC NGUYỆT LÃNG

Châu Thạch

Ai đi qua vòm trời?

Trăng đêm nay lạnh lắm

Bạn tôi tên Nguyệt Lãng

Đã đi vào xa xăm

Võng thơ bạn để ai nằm?

Bút thơ bạn để con tằm nào giăng ?

Bạn về chốn ấy vui chăng

Cởi con hạt trắng mà thăm cõi trời

Đường trần tôi gọi, bạn ơi!

Chỉ nghe nguyệt vỡ sao rơi lạnh lùng

Đêm giọt lệ khốn cùng

Tê trong lòng khóc bạn

Khóc cho người, khóc cho tôi vô hạn

Đâu rồi Nguyệt lãng giữa vườn thơ!

Chắc còn một cõi mộng mơ

Bạn ơi thì hẹn bên bờ lưu ly.