Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

KÊNH MƯƠNG ĐỒNG TRÈM

Đường Văn
Thứ ba ngày 24 tháng 5 năm 2016 10:10 PM


(Tản văn)


Hệ thống kênh mương thủy lợi làng Trèm tôi so với các làng - xã lân cận như Đông Ngạc, Liên Mạc, Tây Tựu, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế… của huyện Từ Liêm, Hà Nội sau hòa bình lập lại, thuộc loại trung bình. Được cái ưu điểm là trạm bơm đầu nguồn cấp nước nên dòng chảy luôn mạnh, không bị cạn, thiếu bao giờ. Con mương thủy lợi đầu tiên được đào đắp ở cánh đồng Trèm chúng tôi không phải là con mương nhỏ gần như con máng chạy từ cống chân dốc nhà bà Bảy (bên này Cầu Sông), qua đường Chùa, qua ao Đấu, qua Văn Chỉ, Ba Đừng, cống đường Cái Dinh (69), xuôi về Cầu Giấy, Yên Hòa, rồi rẽ sang ngả Mỹ Đình, Mễ Trì và còn tiếp tục chảy xa hơn nữa…

Con mương nhỏ ấy mới có từ khoảng nửa cuối năm 1958, khi phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, từ tổ đổi công tiến lên hợp tác đang tưng bừng, rộn rã, ào ạt khí thế lan rộng khắp vùng ngoại thành Hà Nội và nông thôn miền Bắc XHCN. Đó là con mương gắn liền với tuổi thơ của chúng tôi hồi ấy - một dòng mương nhỏ và ngắn dưới đồng xa, bên kia Cầu Sông, được mang cái tên mộc mạc: mương Đồng Vườn..

Mương Đồng Vườn chia nước từ Vực Mạc (hậu quả và dấu tích của trận vỡ đê Liên Mạc, năm 1915) chảy qua các xứ Đồng Gia, Cầu Đìa, Đồng Vườn của làng Trèm rồi đổ ra sông Đào – sông Nhuệ. Tất cả dòng mương chỉ dài khoảng độ 1, 5km. Dòng mương nước xanh ve, êm đềm, lững lờ chảy. Bóng từng đàn cá nhỏ bơi xuôi ngược dưới làn nước trong văn vắt. Đôi bờ, cỏ non trùm mươn mướt. Tôi thích những buổi chăn bò, dắt bờ ngô từ đồng Cầu Đồ qua ruộng Cầu Đìa, tới bờ mương này. Tiếp tục dắt lên bờ, cho bò xuống mương uống nước. Rồi lại dắt tiếp một đoạn dài dọc bờ mương, hoặc về phía Đồng Vườn, xuống tận dệ sông Nhuệ hoặc ngược về phiá Cầu Đìa, sang Đồng Gia, có khi tới tận đầu nguồn bờ Vực Mạc, mới dắt quay về. Nhớ lời mẹ hay dặn tôi, đứa con đầu đểnh đoảng, hay quên và đaị khái, dặn xong xóc từ tối hôm trước hoặc buổi trưa hôm sau:

Đầu chiều, Bòi Tạo thả bò,

Dắt bờ, nhớ chỗ cỏ non.

U sang Đồng Gia cắt cỏ,

Cỏ gà non quá là non!

Nhìn con bò đực lực lưỡng, sừng cán bèo ngang ngang khá chướng mắt. Mình thon, lông vằn sọc như lông hổ, cúi đầu mê đắm, di mõm xoàn xoạt gặm mải miết trên đám cỏ xanh rờn hết miếng này đến miếng khác. Đôi tai và cái đuôi liên tục đuổi ruồi muỗi ve vẩy, ve vẩy, đến nỗi chủ nó cũng phát thèm, bật cười vì cái tính phàm ăn tục uống của loài súc vật vai u thịt bắp.

Tôi vốn rất thích đọc sách nên không bao giờ quên cầm theo một cuốn nào đó vừa mua hay mượn của thằng H, thằng T, những con mọt sách trong lớp - cũng như tôi. Chúng tôi thường hay trao đổi sách mua, sách mượn với nhau hằng ngày. Nghe gió lướt ràn rạt trên cánh đồng ngô bạt ngàn xanh lá xanh non, mỡ màng, mềm mại, múa lên như cờ, như sóng, đầu óc chìm đắm vào từng trang, từng đoạn gay cấn trong Tam quốc, Thủy Hử, Đông chu, Hầm bí mật sông Enbơ, Chiếc khuy đồng… Thỉnh thoảng tôi lại phải giật giật sợi chạc thừng, lôi mũi để nhắc chú bò cố tình vi phạm kỷ luật, thè dài lưỡi, vươn mồm la liếm mấy thân cây ngô non hấp dẫn kề gần miệng. Gậm cỏ hết bờ này qua bờ khác. Bờ dọc lại bờ ngang. Bụng bò căng dần thì bụng cậu chủ cũng ngót dần. Đã thấy tiếng réo ong óc trong cái dạ dày háu đói. Thôi! cố thêm vài dải bờ nữa cho chú mình kễnh bụng. Mai cày đồng đang buổi ban trưa thêm khỏe, thêm bền. Về bây giờ, thật ra cũng còn khí sớm!

Cũng có buổi sáng chủ nhật, chúng tôi rủ nhau đắp, chặn một đoạn mương dài cả chục mét rồi ra sức cùng tát cạn, bắt cua, cá. Phải nhanh tay làm thật khẩn trương, tích cực; vì nếu không tát liền tay, thật lực thì chẳng bao lâu nước sẽ tràn vào, toi công! Lần này chặn đoạn này, lần sau be đoạn khác. Mỗi lần, nước cạn, lộ đáy, cũng mò được ít nhiều cá, tôm, cua, ốc… Không nhiều, nhưng cũng đủ làm bữa tiệc thịnh soạn, mở ngay trên bờ mương đồng. Cá nướng bằng than lửa rơm, rạ thơm lạ thơm lùng, nóng hôi hổi chấm muối - tiêu, ớt (mang sẵn từ nhà). Ngon tuyệt cú mèo! Có điều là ở lứa tuổi 12, 13 hồi ấy, chưa đứa nào biết uống rượu, bia… nên cứ việc thả sức bốc bằng đôi bàn tay còn dính ráp bùn đất, ăn vã, vừa nhai vừa chép miệng, thi thoảng cũng khà 1 tiếng, bắt chước người lớn khoái chí khi nhắm rượu. Không ít lần ăn xong, chúng tôi lại bí mật phân công 1 đứa vượt mương, lủi nhanh sang thửa ruộng mía của hợp tác gần đó, bẻ trộm một, hai cây dài, to, vỏ mỏng tang, vàng xọng. Chia nhau, mỗi thằng 1, 2 tấm, tự róc bằng răng, miệng và tay, nhai ròn khau kháu. Ôi giời! cá nướng vừa xong lại tráng miệng bằng mía de ngọt lịm. Muội mía, phấn mía bám trắng quanh mép. Thằng PH hay thủ con dao găm sắc lẻm, (quà của ông chú từ chiến trường về nghỉ an dưỡng cho) róc mía, chặt mía, tiện mía soàn soạt, nhai mía nhanh thoăn thoắt. Loáng cái đã hết 1 tấm. Tiếp liền tấm nữa, tấm nữa… cho đến lúc no cành bụng. Ợ to 1 cái, nó lăn kềnh ra bờ mương, mắt lim dim nhìn lên bầu trời quê xanh cao lồng lộng. Khoan khoái vô cùng! Thật đúng là cảnh thần tiên của lũ mục đồng làng Trèm chúng tôi đầu những năm 60 thế kỷ trước:

Ai bảo chăn trâu (bò) là khổ?

Không! Chăn trâu (bò) sướng lắm chứ!

Mương Đồng Vườn là con mương lâu đời nhất của làng Trèm tôi. Có lẽ nó được đào ngay từ sau khi hình thành Vực Mạc. Nghĩa là nó cũng đã hơn 1 thế kỷ tuổi tác rồi, cho đến nay. Bây giờ Vực Mạc đã bị lấp bằng. Dân sở tại và ngụ cư trồng rau màu, xây biệt thự, nhà hàng…Mương Đồng Vườn, nối với mương Đồng Gia, tiếp tục chuyên chở dòng nước lờ đờ, đen sậm, đổ róc rách vào dòng sông quê cũng đang bị ô nhiễm nặng nề. Dưới con mắt già mỏi của tôi, hình như con mương cằn cỗi cũng trở nên nhỏ bé lại, gầy gò thêm và buồn nản, uể oải thêm. Mương lão như cố gồng mình lên để tồn tại cho hết những năm tháng héo tàn cuối cùng của cuộc đời mương máng. Len lách giữa những ngôi nhà hộp mới xây, đáy đất bùn, rác, đầy mãi lên. Đôi bờ ngổn ngang từng đống đất khô rang và phế thải đổ vô trách nhiệm của những hộ cư dân cũ, mới thôn TP. Có những đoạn mương, hai dải taluy vẫn phẳng phiu, rêu mọc xanh rì, nhưng dòng nước bên dưới thì xanh lướt, xám đen, bốc mùi lưu cữu, tù đọng. Con mương từ lâu đã không còn được làm chức năng thủy lợi, tưới tiêu nước cho cả cánh đồng cát pha bát ngát đang dần dần có nguy cơ bỏ hoang hóa mở rộng. Cỏ dại rậm rì…

Cũng rất đáng nói ở đây là hệ thống mương nổi xây thành, lát đá bằng xi măng và bê tông chạy từ trạm bơm bên kia sông Nhuệ xuống mãi đồng Tranh, đồng Vỡ, sang tận bên những cánh đồng Thượng Cát, Tây Tựu, nhiều năm trước đây cuồn cuộn ào ào nước xuôi, nước rẽ ngang, chảy vào những kênh máng nhỏ, tới từng thửa ruộng lúa mới cấy, ruộng trồng khoai tây, lạc đến kỳ vun xới…

Giờ đây, cả hệ thống mương máng nổi ấy thường xuyên bị khô rang, trơ đáy phẳng lỳ. Cứ cách một đoạn khoảng hơn 2 m lại có một thanh xà ngang đổ bê tông chia thành từng ô đều đặn trên mặt mương máng. Tất cả con mương khô khát, trơ trọi phơi mình suốt ngày đêm, suốt 4 mùa, quanh năm dưới nắng mưa, ấm lạnh… Gần như cả một hệ thống dòng mương đang nhẫn nhục chịu cái chết lâm sàng!

***

Trạm bơm nước phục vụ Thủy lợi Nông nghiệp đầu tiên của làng Trèm là một ngôi nhà gạch lợp ngói móc nhỏ nhắn, dựng ở lưng lửng bờ sông Nhuệ, trong đặt 2 chiếc máy bơm chạy dầu, suốt ngày rung rinh, nổ vang tành tành, phành phạch điếc tai nhức óc, khói bốc xanh lè, cuồn cuộn. Dầu máy loang nhễ nhại mặt sàn. Ống hút nước cao su bằng bắp đùi sun sun như vòi voi bò cuộn xuống gần đáy sông. Một thời gian sau, xây thêm một nhà để máy nữa hiện đại hơn. 4 môtơ chạy điện bắt vít với trục quay ngang 4 máy bơm điện. Ống hút, xả nước lớn gấp vòi máy cũ cả 4, 5 lần. Chưa dừng lại ở đó. Cuối năm 1959, Trạm bơm Trung Thủy nông Thụy Phương khánh thành (chỉ đứng sau Trạm Đại Thủy nông Bắc Hưng Hải bên Gia Lâm). Được trang bị tổ hợp 4 máy bơm điện công suất lớn, đặt đứng hùng vĩ, hút nước thẳng từ tầng hầm nối liền với sông. Vòi xả nước xây thành cống bê tông, đường kính cả mét, mỗi giờ bơm tới 400m3 nước. Cống đặt ngầm qua đường, đổ vào khoang bể xả đầu nguồn.

Một chiều mùa đông cuối năm 1959 (Kỷ Hợi), thầy trò lớp 4C chúng tôi vừa đi cắm trại dã ngoại ở rặng nhãn Thượng Cát trở về, thấy cảnh lạ, ùa nhau đứng lại xem. Hai hàng cờ đỏ sao vàng cắm trên nóc trạm bơm bay phần phật. Tiếng máy điện chạy vo vo, rùng rùng. Nước dâng cuồn cuộn, ùng ục từng khối, từng đợt lớn trong khoang mương đầu nguồn rồi ào ạt chảy xuôi về phiá Tờ chỉ, ba Đừng, Bê tông... Chúng tôi bám vào thành lan can sắt, thò hẳn chân xuống dòng nước đỏ quạch phù sa vàng sậm, mát lạnh; thấy thật tự hào, thích thú về quang cảnh làng quê mình đang đổi mới mạnh mẽ.

Từ đó, cứ buổi trưa nắng to là chúng tôi rủ nhau ra mương tắm. Anh VD nổi tiếng bạo, nghịch, trèo, đứng hẳn trên mặt thành cầu cao so với mặt nước vài 3 mét, trần truồng nhảy ùm xuống mương, chìm nghỉm. Một lúc sau mới nhô đầu lên ở quãng mương dưới, thở phì phì, cười khanh khách. Ùm! ùm! Ùm! Chúng tôi nối đuôi nhau bắt chước hành động táo bạo ấy. Cụ B đứng hóng mát ở cồng chùa, cái đầu sư lắc lư, tay che quạt thước, nhìn ra, quát lớn:

- Gớm lũ con cái nhà ai mà nghịch quá quỷ sứ như thế? Chả có ngày ngã dập mặt, chết đuối, bố mẹ chẳng khóc hết nước mắt!

Bà C đứng gần đó chẹp miệng, thở dài:

- Thì con ông T, cháu bà U, kìa cả thằng Y, cháu nội cụ chứ ai!

– Úi giời, đâu đâu? Nó đâu?

Cụ B hướng về phía cầu mương, gào lớn:

- Y! có thôi ngay không? Có về ngay không? Ông thì đánh tuốt xác mày ra ngay bây giờ!

Nhưng Y, cháu cụ và lũ bạn của nó chẳng biết có nghe thấy hay cố tình lờ đi trước cái mệnh lệnh nghiêm khắc mà độc đoán của ông nội. Chúng nó vẫn hò nhau nhảy cầu bổ đầu ầm ầm giữa cái nắng trưa gay gắt như chẳng biết mệt là gì! Cụ B thét cháu chán không được, đành bực tức lẩm bẩm:

- Rồi tối về, ông sẽ cho mày biết tay! Ông sẽ nói hết với thằng bố mày, xem nó có dạy được con không?!

Vào những buổi chiều đông nắng ấm, bà con trong làng thích đem quần áo, chăn màn ra mương, ngồi giặt giũ. Nước mương mùa đông cũng khá trong, lại chảy liên tục nên khá sạch sẽ. Các bà, các chị vỗ áo, đập chiếu bồm bộp, vang động trên mặt mương. Vừa vò quần áo vừa rí rích trò chuyện, cười đùa trêu chọc nhau. Thỉnh thoảng, có chiếc xe đạp kính coong chở một anh niên quần là áo lượt đạp qua. Các cô vụt ngẩng đầu ngắm nghía, có khi bạo miệng trêu đùa mấy câu khiến chàng trai qua đường chỉ còn biết đỏ mặt hấm hứ mà phóng xe đi thẳng, miệng lầm bẩm:

- Con gái làng Trèm ghê gớm quá! Một trận cười rúc rích, ròn rã đuổi theo anh.

Chiều chiều hay sáng sáng, tôi thường ra mương gánh vài gánh nước về nhà, đổ vào bể con, chum, vại để cả nhà tắm rửa, rửa rau, vo gạo… Nhiều lần kết hợp mang kèm cả chậu quần áo, chiếu chăn giặt một thể. Vai gánh, tay cắp chậu quần áo, tay kia đánh đường xa, mải mốt. Đòn gánh tre già dẻo dắn, dập dềnh trên vai. Những giọt nước sóng sánh ra, vẽ thành dải đường hoa ngoằn ngoèo từ bờ mương tới sân nhà. Có lần tình cờ gặp mấy cô bạn cùng học Sư phạm về nghỉ Tết, từ nội thành Hà Nội đạp xe lên chơi, bỗng nhiên thấy chân tay lóng nga lóng ngóng, chệnh choạng thế nào…! Các bạn gái dừng xe, chặn ngang, thay lời chào gặp mặt bằng câu khen thốc, tơi tả:

- Á à! Bạn Đ này chăm và đảm quá nhỉ?!

Mình đành làm mặt trơ lỳ:

- Chào các bạn! Vất vả quá! Ta cùng về nhà đi!

Chủ khách cười vang. Kẻ dắt xe, người gánh nước thong thả vào làng.

Những năm chiến tranh phá hoại (1965 – 1972) các kỹ sư thủy lợi Hà Nội có sáng kiến nối, ghép một con máng bằng kim loại bắc qua Cầu Sông để chuyển nước mương bờ bên này sang bờ bên kia sông Nhuệ, đổ vào mương máng tưới cho cánh đồng bên ấy. Chẳng bao lâu sau, nước sông được bơm từ trạm bơm bên này, qua mương dẫn vòng trở lại, theo dòng máng uốn hình hộp, chảy đều đều bên trên cách dòng nước sông Đào cả chục mét, đổ vào mương dẫn bờ bên kia, chui qua cống ông B rồi đổ sang mương máng đưa xuống các xứ đồng xa bên ấy. Lũ trẻ con thích nghịch quái chúng tôi hè nhau khỏa trần như nhộng, rùng rùng bơi lội, hò reo, thả mình theo dòng nước mát ấy, từ bờ bên này tuột qua bờ bên kia, lắm bận còn chui qua các lòng cống cao sang tận Ao Cá, Cầu Đồ một cách hết sức mỹ mãn.

Trạm bơm Trung thủy nông Thụy Phương những năm ấy và cả hàng chục năm sau này, đóng vai trò đầu nguồn, chuyên “bán nước” đúng (theo nghĩa đen) theo chỉ tiêu, kế hoạch phân phối cho các hợp tác xã nông nghiệp cày cấy, gieo trồng hằng vụ, hằng năm. Đời sống cán bộ công nhân của trạm rất ung dung, khấm khá trong giai đoạn bao cấp khó khăn một thời. Nhưng từ nhiều năm nay, tình hình làm ăn sản xuất, kinh doanh mặt hàng nước quốc doanh không được thuận chiều, suôn sẻ như xưa. Các cỗ máy bơm hầu hết thời gian nằm đắp chiếu. Mương máng cạn khô, dọc bờ mương hóa nơi đổ rác. Công nhân thất nghiệp đói dài, không ít người xin nghỉ mất sức, về một cục. Khuôn viên Trạm Thủy nông Thụy Phương vắng vẻ, buồn buồn…Tình hình sản xuất và tiêu dùng nước phục vụ sản xuất trong tương lai chẳng mấy khả quan…!

***

Vài năm gần đây, sớm sớm, chiều chiều đưa, đón cháu đến trường, qua một đoạn dọc bờ mương, cạnh nhà máy Bê tông đúc sẵn, bé cháu gái gần 4 tuổi, ngó dòng mương hấp hối, thum thủm bốc mùi, ngoái lại nhìn ông nội cái nhìn thắc mắc, mặt nhăn lại, thỉ thỏ:

- Ông ơi! sao nước mương này đen quá! thối quá! thối inh lên, ông nhỉ?!

Ông nội nó chỉ biết cười xòa, ngơ ngẩn lặp lại lời cháu:

- Ừ! Đen quá! Thối inh lên!... Hà San nhỉ!

Chiều bầu cử Quốc hội HĐND các cấp, 22/5/2016. ĐV

THẢ BÒ VƯỜN PHI LAO

(Thơ tùy bút – hồi tưởng – bản rút gọn)

ĐƯỜNG VĂN

Tháo chạc, đủng đỉnh dắt ra chuồng,…

Nghếch sừng, cong đuôi, tuông một bãi!

Đống phân tươi, chua lòm, bốc khói,

Lù lù, phền phễn giữa bờ mương.

Vội nhặt cành tre vương, cắm dấu,

đợi chiều, mẹ về hót, ủ thêm.

- Nhà nông, kiệm cần, con phải nhớ!

Ân cần mẹ dặn…, dám đâu quên!

Dong bò lộp cộp qua Cầu Sông,

Vòng xuống vườn thông, gió thổi lồng.

Vấn thừng, cho chú tha hồ gặm,

cỏ gà, cỏ mật, cỏ lông chông…

Rửng mỡ, Cán Bèo tìm bạn gái,

Ả bò vàng hàng xóm đang chờ,

dưới dệ sông, vừa ăn vừa ngóng,

Gã láng giềng, nóng bỏng, cà lơ…

… Nắng lóang sông Đào, êm rót mật,

Đôi bò cặm cụi gậm… bình minh!...

Chốc chốc lại hồn nhiên hít ngửi

hơi nhau, mằn mặn gió… đưa tình!

Phi lao vi vút, rì rào mãi,

Tấu bản bi ca vật với người:

Có đôi mà chẳng làm nên chuyện!

Một mình, đành tự sướng … mà thôi!

Nửa chiều, bì bũm với dòng sông,

Nhảy bổ đầu, bơi lặn dăm vòng,

Cho lòng dịu bớt cơn cuồng hứng,

Tuổi dậy thì… mưng mửng mười lăm!

Tắm lên, rủ bạn chơi trận giả,

Bắn nhau đì đọp, bắt lại thả…

Chơi mệt, chụm đầu nghe truyện xưa:

Tam quốc, Tây du… khoái thấy bà!

Trưa, xài cơm nắm, muối vừng rang,

Đói ngấu lâu rồi! Ngon quá ngon!

Vồ con châu chấu, đem lùi, nướng,

Nước vối làm bia, chuyện nổ giòn!

Thay nhau: đứa ngủ, đứa trông bò,

Đừng xéo vườn dây lang chum chĩnh!

Sẫm chiều, đài vẳng tiếng ngâm nga,

giọng Huế, thơ hùng: lời tôi nhớ!*

Lùa bò lên làng, hướng cây gạo

Cầu Sông, thủng thỉnh như đi dạo.

Bò no kễnh bụng, bước lặc lè,

Mục đồng uể oải lắng tiếng ve.

***

… Thả bò vườn phi lao, chủ nhật,

Buồn vui, ký ức sáu mươi năm…

U70 ngùi thương, lật giở,

Muốn cười vang, lại muốn khóc thầm…

Dĩ vãng chập chờn ru mộng ảo,

Lúc thật gần, lúc buột xa xăm,

Lúc hồi hộp bóp tim, như thật!

Khi ngượng ngùng, xấu hổ, ăn năn…

Nương áng mây vàng bay mất hút,

Đổ chiều nắng quái, gió phân vân…

* Hãy nhớ lấy lời tôi! (1964 – trong tập thơ “Ra trận”); Thơ Tố Hữu ca ngợi Anh hùng – Liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi (1940 – 1964). Nhà thơ đọc trực tiếp, phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam.

Chiều 21/5/2016. ĐV

THẢ BÒ VƯỜN PHI LAO

(Thơ tùy bút – hồi tưởng – bản hoàn chỉnh

- dự định sẽ in vào sách KHÚC KHÍCH TRONG CHĂN (2017)

ĐƯỜNG VĂN

Tháo chạc, đủng đỉnh dắt ra chuồng,

Nghếch sừng, cong đuôi, tuông một bãi!

Đống phân tươi, chua lòm, bốc khói,

Lù lù, phền phễn ngáng bên đường.

Vội nhặt cành tre vương, cắm dấu,

đợi chiều, mẹ về hót, ủ thêm.

- Nhà nông, kiệm cần, con phải nhớ!

Ân cần mẹ dặn…, dám đâu quên!

Dong bò lộp cộp qua Cầu Sông,

Vòng xuống vườn thông, gió thổi lồng.

Vấn thừng, cho chú tha hồ gặm,

cỏ gà, cỏ mật, cỏ lông chông…

Rửng mỡ, Cán Bèo tìm bạn gái,

Ả bò vàng hàng xóm đang chờ,

dưới dệ sông, vừa ăn vừa ngóng,

Gã láng giềng, nóng bỏng, cà lơ …

Nối đuôi nhau, chúng dạo vòng quanh,

Bèo hít mông Vàng, cười nhăn răng!

Nàng ngẩn tò te, tẽ đuôi đợi,

Chàng tung vó trước, cỡi lên lưng!

Chao ôi! cú đụ thật kiêu hùng!

Đầu chim nhu nhú, thúc, tấn công!

Ô lạ!... chỉ thế thôi,… hẫng hụt!

Chày thụt đâu rồi? có ức không!?

Cán Bèo uất, nhảy, chồm, ấn mãi!

Hết sức bình sinh,… quái được gì!

Toát mồ hôi bụng, mồ hôi dái,

Hạt, thiến từ lâu!... phủ… ích chi!?

Vàng cứ ưỡn cong mông, xòe bướm,

Dâm thủy dầm dề đẫm bụng chàng!

Cán Bèo bất lực, ò khe khẽ,

Huỳnh huỵch, loay hoay, bết!… lại càng …!

- Thôì đành liếm láp, biết làm sao!

Liếm mạnh nữa nào, cho đỡ ngứa!

Lưỡi lách sâu vào, khêu to lửa,

Thiêu rụi tình em, chửa chứa chan!

Cán Bèo hì hụi, lưng tròng mắt,

Ngửi, liếm chuyên cần, chiều bạn tình.

Nắng lóang sông Đào, êm rót mật,

Vàng im, cúi gặm, rõ bò xinh!...

…Ngẫu nhiên, chứng kiến cảnh nao lòng,

Chim đã vươn căng, bị phập phồng,

Khí ứa đầu quy, cần cứng ngắc,

Thò tay day, nắm, tuốt,… thủ dâm!…

Nhắm mắt tưởng mình đang… đánh ai!

Ngây ngất, mơn man, đợt đợt dài,

Thốt phóng tinh ào, như tên bắn,

Một, hai…, ba lượt… quất mưa dai…!

Tự sướng ngâm!... ngả trần xuống cỏ,

Mặc kệ thằng choai nó gật gù!

Đôi bò vẫn hồn nhiên hít ngửi

mông nhau, mằn mặn gió đầu thu!

Phi lao vi vút, rì rào mãi,

Tấu bản bi ca vật với người:

Có đôi mà chẳng làm nên chuyện!

Một mình, đành tự sướng … mà thôi!

Xong xuôi, bì bũm với dòng sông,

Nhảy bổ đầu, bơi lặn dăm vòng,

Cho lòng dịu bớt cơn cuồng hứng,

Tuổi dậy thì… mưng mửng mười lăm!

Tắm lên, rủ bạn chơi trận giả,

Bắn nhau đì đọp, bắt lại thả…

Chơi mệt, chụm đầu nghe truyện xưa:

Tam quốc, Tây du… khoái thấy bà!

Trưa, xài cơm nắm, muối vừng rang,

Đói ngấu rồi! Ngon quá là ngon!

Vồ con châu chấu, nhanh lùi, nướng,

Nước vối làm bia, chuyện nổ giòn!

Thay nhau: đứa ngủ, đứa trông bò,

Đừng xéo vườn dây lang chum chĩnh!

Ngả chiều, đài vẳng tiếng ngâm nga,

giọng Huế, thơ hùng: lời tôi nhớ!*

Lùa bò lên làng, hướng cây gạo

Cầu Sông, thủng thỉnh như đi dạo.

Bò no căng bụng, bước lặc lè,

Mục đồng uể oải lắng tiếng ve.

***

… Thả bò vườn phi lao, chủ nhật,

Buồn vui, ký ức sáu mươi năm…

U70 ngùi thương, lật giở,

Muốn cười vang, lại muốn khóc thầm…

Dĩ vãng chập chờn ru mộng ảo,

Lúc thật gần, lúc buột xa xăm,

Lúc hồi hộp bóp tim, như thật!

Khi ngượng ngùng, xấu hổ, ăn năn…

Nương áng mây vàng bay mất hút,

Đổ chiều nắng quái, gió phân vân…

* Hãy nhớ lấy lời tôi! (1964 – trong tập thơ “Ra trận”); Thơ Tố Hữu ca ngợi Anh hùng – Liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi (1940 – 1964). Nhà thơ đọc trực tiếp, phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam.

Chiều 21/5/2016. ĐV