Trang chủ » Trần Nhương giới thiệu

CHIẾN TRANH CHÍN KHÚC TƯỞNG NIỆM

Nguyễn Thái Sơn
Thứ hai ngày 11 tháng 1 năm 2010 2:10 PM



Nguyễn Thái Sơn
  
Trường ca

 (Nhà Xuất bản Văn Học, 10-2009)
                             

Tưởng niệm Anh Linh những Người Việt đã
bỏ mình vì chiến tranh ở Thế kỷ Hai mươi
 

khúc thứ Nhất
BIÊN THÙY

I
Nhìn từ Vũ trụ
Trái Đất sáng như khối pha lê
xanh biếc
tuyệt đẹp
hình ảnh ấy có từ bốn chục tỉ năm
khi Trái Đất vừa mới ra đời
hào hứng bay
kiên nhẫn bay trong vũ trụ
biển bao la không chia thành các đại dương
không phân biệt Biển Đen Biển Đỏ
đất mênh mông nối thành lục địa
không có đường biên phân định lãnh thổ quốc gia
                                                 
loài người chưa xuất hiện
Trái Đất hiền hậu trong lành
hành tinh dậy thì tươi nhuần màu mỡ
chưa sôi nước mắt nóng hổi xót cay
chưa phơi xương trắng
chưa tuôn máu đỏ
từng thế kỉ qua đi
Mặt Trời ít dần sức hút
mờ dần ánh sáng
như cây nến cháy đến giọt cuối cùng ?
địa cầu sẽ dạt trôi trong giá lạnh
đặc quánh bóng đen
không còn ngày nay
không có bữa mai
bình minh hoàng hôn không bao giờ có nữa
Trái Đất sẽ rơi tự do trong những tỷ năm
chìm nghỉm vào “ lỗ đen ”
                    không khi nào chạm đáy
chuyển động hỗn loạn trong vô cùng vô tận không gian
cháy bùng
nổ vụn
vỡ tan !…

ngót bốn chục tỉ năm
chưa có con người Trái Đất tẻ nhạt cô đơn
dòng sông chưa được thoả thuê ôm ấp những hình thể khoả thân
làn nước chưa thay gấm vóc lụa là giấu da trần thịt nõn
bãi sông hang đá im lìm
chưa rúng động bởi những cuộc làm tình
bản năng
                 đam mê
                               cuồng nhiệt
 
những con người đầu tiên xuất hiện  
nương tựa nhau ôm ấp nhau
yêu thích thật nhiều
giao phối thật nhiều
sinh đẻ thật nhiều
để bầy đàn thêm đông
mặt đất đỡ hoang vu
hang động không vắng vẻ
bớt sợ hãi rừng thiêng núi dữ
chó sói không vào hang bắt trẻ con

đông người xô ngã được cây cao
bẫy bầy voi to
săn đàn trâu lớn
không lo thiếu thức ăn khi bão rừng lũ cuốn
đàn ông có thêm đàn bà   
gái tơ tha hồ chọn nhiều trai khoẻ
rừng của chung sông suối của chung thảo nguyên của chung
của chung bầy ngựa rừng đồi dứa chín
đàn ông của chung đàn bà của chung
huống gì đất đai
kể chi sông biển !…

II
Đàn bà biết lựa xương thú lông chim
con gái học cách chọn đất màu làm đẹp                               
đàn ông ngày càng to cao khoẻ mạnh…
nắng ủ men
            mênh mông bạt ngàn vô tận mía
mật ngọt hoá rượu cay
rượu nồng nàn quyến rũ
ma qủy xui khiến con người chế ra nước phép
để có thêm đồng bọn đồng minh
rượu ngấm vào tim
tan hoà trong máu
đàn bà
         vồ gỗ đập quan tài
                                 mo cau quạt mộ
đàn ông xé sách đốt đền
rượu rút ngắn thời gian trở thành nghệ sĩ
làm tăng nhanh số lượng nhà thơ…
uống nhiều rượu núi ngỡ thấp
vực tưởng nông
con người thêm nóng vội
nòi giống càng tinh ranh
tăng ham muốn ở đàn ông
rạo rực tim đàn bà
rối lòng thiếu nữ…

người yêu người người sinh ra người
chặt gỗ dựng nhà cắt gianh lợp mái           
thuần dưỡng lợn lòi thành lợn ỷ Mường Khương lợn sề Móng Cái
chuối dại hoá chuối ngự chuối tiêu
hành tinh khổng lồ không thể lớn thêm
bớt hoang dã địa cầu càng chật
khỉ vượn hươu nai hẹp dần đất sống
chó sói đánh dấu lãnh địa 
                          móng chân cào toạc vỏ cây
- rừng nào cọp nấy !
                    hổ báo gầm gừ đọc tuyên ngôn
đất có Thổ công sông cần Hà bá   
con người gán sông núi cho thánh thần
rồi tự nhận phần
chia phần…
bộ tộc kết thành dân tộc
chiếm cứ lãnh thổ tạo dựng quốc gia 
hình thành biên giới biên cương biên ải biên thùy   
 
ta từng muốn được sống như thời man sơ ấy
không cần Đảng A
không cần Đảng B
không cần cả Đảng C…
không cần thủ tướng
không cần nghị viện nghị viên
mọi người đi cùng loại xe tuần lộc lôi chó kéo
bắt thỏ săn nai hái lượm trái cây
không ai thành tỉ phú
không ai phải ăn mày
được sống ở thời mông muội ấy
ta chưa biết giẫm đạp lời thề khiến đời em dang dở
khi nhắm mắt xuôi tay
khỏi bị trừng phạt
            những vòng dây lửa thắt trói linh hồn

cuộc sống bây giờ cần nhiều thứ quá 
nhà ở
xe đi
bằng cấp
ghế ngồi
những danh hiệu danh xưng
nào danh gia danh vọng
bí danh bút danh lắm vào
cũng vô danh vô tích sự thôi !

III
Biên cương
là dãy núi hiểm trở thưa thớt mờ nhạt dấu chân
sườn đông nước này
sườn tây nước khác
biên giới
là nhát cắt chia đôi con sóng
cây gạo cao to gấp chục lần cột mốc  
hoa trên cành nước em rụng xuống cỏ nước anh
 
Trái Đất
chiếc bánh khổng lồ của Trời  
con người luyện lưỡi dao vô hình xắt thành vài trăm miếng
hơn thiệt rủi may đã thành quá khứ
không thể đổi thay  
không chia lại nữa !
cư dân xứ Việt
con cháu ngàn đời của Rồng Tiên
được chia giải đất vừa hẹp vừa dài
uốn lượn từ Nam lên Bắc
như miếng bánh chưng ở góc
miếng bánh dợm ngoài rìa
người Việt từ ngàn xưa
lấy ấm là cần
coi no làm trọng

nhân bánh của ta
sừng tê giác ngà voi đồi mồi
gỗ vàng tâm xà cừ lim táu
than béo than gầy Phấn Mễ Hòn Gai Hồng Quảng
mỏng tang vài lớp đất đồi lấm tấm vàng cám Bồng Miêu
của nả chỉ bấy nhiêu
mà trộm đạo rình rập
giặc dã bên đông bên đoài
mấy ngàn năm máu chảy đầu rơi

mục đồng dựng cờ lau đánh trận
nữ nhi múa kiếm trên lưng voi trắng  
đè sóng dữ cưỡi cá kình đuổi giặc  
nghìn năm trước sang ngàn năm sau …
biên giới biên cương biên ải biên thùy
vẽ trên giấy
vạch trên mặt đất
chẳng tốt đẹp gì mọi chia lìa ngăn cách

ta vẫn muốn như thuở hồng hoang  
tự do trú ngụ tự do thiên di vùng này vùng khác
như hươu nai cò vạc
chẳng tốt đẹp gì
nhưng nếu không có biên giới biên cương biên ải biên thùy
hành tinh càng hỗn loạn rối ren
đất đai vô chủ vô thần
giành đi giật lại …

biên giới
lắm khi phải chấp nhận trong hoài nghi
thừa nhận trong cay đắng
có thể thay đổi hiện tại
sắp đặt tương lai
nhưng lịch sử không thể nào thay đổi ! 
 
lắm kẻ muốn định lại cương vực
lấn vùng này chiếm nơi khác
xê dịch đường biên từ Bắc xuống Nam từ Đông sang Tây
để “miếng bánh” nước mình thêm to thêm ngon 
những người mẹ Việt
Bà Trưng Bà Triệu Liễu Hạnh Mỵ Nương
những người cha
Mai Hắc Đế Triệu Quang Phục Bố cái Đại Vương 
đất đai dưới gầm Trời cội nguồn sự sống
phát tích văn minh Trống đồng
văn minh Lúa nước
văn minh Bánh chưng bánh dầy
văn minh Ca trù
Quan họ
Cồng chiêng…          
hổ thẹn với tiền nhân
mang tội với muôn đời sau
nếu để giặc chiếm
dù vũng nước trâu đầm gốc cây bờ ruộng…

IV    
Đất mọc rừng
rừng vùi lấp triệu năm kết thành than thành quặng
ma mút khủng long
sứ giả lặng câm của thời Tiền sử
bất tử trong những nét vẽ ở vách hang mặt đá
ta đi trên mặt đất 
theo dấu chân khai sơn phá thạch
dân phu muôn đời đổ mồ hôi nước mắt
đồng bãi mỡ màu
ruộng bậc thang quàng quanh vách núi
người Việt bao đời nuôi con bằng hoa trái
thóc gạo cá tôm
nuôi đất bằng thịt xương của mình
người với đất nuôi nhau bằng những gì qúy nhất
thảo mộc chim muông hoá thân vào chữ viết            
vàng tâm tạc tượng
gỗ lim dựng cột
gạch ngói lợp đình
để bà để mẹ để em ngả nón
ghép khuôn nấu đồng đúc trống Đông Sơn Ngọc Lũ
luyện sắt dựng ngựa thần
                 Thánh Gióng đuổi giặc Ân…

thần dân Ba Tư dựng vườn treo Babilon 
nô lệ lưu vực sông Nin xếp đá tảng tạo kim tự tháp
nông dân Khơme xây Angko Thom Angko Vát 
người da đỏ vẽ trên xương ức đại bàng
người châu Phi xếp hình trên cát
viết nên trường ca
kể thành truyền thuyết
soạn chung thông điệp gửi đến muôn đời :
- cát bụi tạo nên
                     con người lại trở về cát bụi ! 
 
Thành Cát Tư Hãn từng muốn đặt hành tinh trong tầm tên bắn
có những năm tháng cả nhân loại lo âu phấp phỏng
xe tăng in hình mặt trời, dấu thập ngoặc
                                            cuốn xích cày nát châu Á châu Âu
đòi chia lại lãnh thổ quốc gia
vẽ lại biên cương biên giới

- Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
- Núi sông bờ cõi đã chia
- Sông có thể cạn núi có thể mòn…
biên giới biên cương hữu dạng vô hình
đời trước truyền đời sau gìn giữ
Hốt Tất Liệt
Nã Phá Luân
Hít Le…
mang xuống mười tám tầng đất đen
giấc mơ bá quyền bá chủ.
___________________________________________________________________________________________

khúc thứ hai
MẸ NHẰN HẠT NA CHA NHAI DẬP MÍA

I
- Em cứ nói
dù anh không tin không đợi
nhưng đừng mong anh đáp lại !
- em yêu anh nhất trên đời !
ừ thì em cứ nói
đêm diệu huyền
đầu ngả sang đầu
tay nóng bỏng tay
cây nghiêng ngả
trăng đầy
hồ nổi sóng
- yêu em nhất trên đời !
anh cũng muốn thốt lên như thế
nhắc lại nhiều lần
yêu nhiều như lá rừng
dạt dào như sóng bể …
nghiêng ngả chênh vênh
đánh đu leo dây chóng mặt
say đắm đam mê
tình yêu tuyệt đối
tình yêu tự do
sáng trong
buông thả…
tình yêu trốn tìm trong mắt
thả trứng chuồn chuồn ớt lên da
rót mật vào tai
anh tin
em nói như lòng nghĩ
nhưng không muốn đó là sự thật

đã có từ khi chúng mình chưa hiện hữu trên đời
tình yêu đầu tiên
tình yêu lớn nhất
dành cho em cho anh
thuộc về mẹ cha
tự nhiên
           bản năng
                     trước cả những gì ước muốn
như với nghé sữa bê tơ mèo con cá bột

em có thể không là của anh
                    suốt đời làm vợ người khác
anh có thể mất em
suốt đời đành là chồng người khác
lòng anh yên tĩnh mỗi khi bước qua cổng chùa
cảm ơn em vô hình bao lần kéo anh xổ khăn rách áo
để anh khỏi xuống tóc như bao sư già sư trẻ
trước khi ruổi ngựa vào rừng tìm Phép Màu
                                                  chân tu thành Phật Tổ
hoàng tử nâng gươm cắt mái tóc xanh tạ tội vua cha

anh không rơi từ ngọn cây
em không lẫy ra từ ruộng nẻ  
ôm nhau thật chặt
như hai kẻ hành hương vừa ngụp lặn trong
                             nước thiêng sông Hằng
nuốt giọt cam lồ
uống nước tàn nhang
giật mình bừng tỉnh
không phải lời niệm Phật
không lẩy ra từ Cựu ước Tân ước Coran Địa tạng
tiếng nói tự đáy lòng
- ta yêu nhất Mẹ Cha !

II     
Núi sông đầu tiên
âm thanh đầu tiên
ánh sáng đầu tiên
ấm lạnh đầu tiên
tất cả
trong vòm trời đầu tiên
                              vòm trời bụng mẹ
vòm trời bụng mẹ
ổ kén vàng tằm no lá dâu
đại bàng non vỗ cánh bay chuyền
tổ bám vách động Hương Sơn
treo cành thông già rủ mái chùa Yên Tử
vòm trời bụng mẹ
bụi trúc ngà cỏ linh chi lót ổ
trứng chim công trắng nõn phập phồng chờ nứt vỏ
rực rỡ sắc cầu vồng
nước dãi chim yến trộn lẫn huyết hồng
lông tơ phượng hoàng ủ mây ngậm gió
ngơ ngác cất tiếng hí chào đời ngựa chín hồng mao
vòm trời bụng mẹ
                              vùng trời đầu tiên

mẹ nhận biết khi ta còn mỏng manh
tơ nhện
          chỉ mành
                          giọt mưa
                                           sợi khói…     
nửa đêm về sáng bãi tha ma ngoài đồng
gốc lim cổng chùa cây gạo bến sông
đảo lá vặn cành phả làn gió độc
chướng khí lọt qua khe cửa vào chõng mẹ nằm
tơ nhện chỉ mành
                        con của mẹ
                                         đứt tung
                                                       làm sao nối lại !
mẹ lăn sóng soài
                         trời mưa đường trơn
mẹ ngã vặn lưng
                    cọc cầu ao mục gẫy dưới bùn
giọt mưa 
con của mẹ
                 bốc hơi vào nắng
yếm mộc khăn gai
mẹ vắt dọc dây thừng phơi ngang sào nứa
chim lợn kêu đêm
quạ khoang nhỏ dãi              
sương độc thấm loang giải yếm
tà khí nhàu khăn
sữa ngọt của mẹ hoá nhựa xương rồng
tháng tám dốc bồ
ngày ba úp thúng  
cơm độn củ chuối cháo lẫn sung non
mẹ ăn sắn độc xuyên rễ cỏ tranh
nuốt phải măng luồng mọc bên hang rắn
sợi khói
con của mẹ
                     bay theo mây trời !…

may mà cha đã sớm nhồi rơm bện rạ chắn gió che mưa
bắc lại cầu ao
              đóng lút cọc gỗ bạch đàn
                             ken dày mặt cầu lạt mây tre đực
may mà
đường trơn vãi tro ngõ lầy rắc trấu
mẹ bấm mười móng chân tứa máu

phập phồng cuống nhau khí huyết dồn về  
con dày thịt xương nhô tai mọc tóc
Bà Mụ nhào nặn tò he
Đất Trời cho con tim óc
linh hồn kết tụ từ lòng yêu thương hi vọng của cha
tò he hoá thân
                  con biết ấm lạnh buồn vui cùng mẹ
mong đợi đủ tháng ngày cha đón con ra

bì bõm lội ruộng chiêm tóc mẹ đẫm mưa
tàu bay Hencát, Đacôta xé gió trên đầu
mẹ dò dẫm theo cha
lựa chân tránh từng rãnh cày gốc rạ
cả khi đã ngồi dưới hầm sâu bình yên trong lòng đất 
mẹ vẫn giấu con vào góc hầm kín nhất
những năm tháng ấu thơ
đêm mùa đông giá lạnh
con rúc đầu vào nách mẹ lòng bà
gác chân qua bụng cha      
khói thuốc lào cay
quết trầu nồng  
sữa ngọt
mỗi khi nhớ lại mắt cay mũi nghẹt       
                   
đêm tháng chạp mẹ quấn con bằng vạt áo bông đụp chằng mụn vá
giặc từ Bến Trại càn vào Đò Neo bủa qua Vô Hối 
Tây trắng Tây đen cắt đường bịt lối
tao nôi cánh võng đầu tiên của con
                                   cặp thúng cái tản cư
quang mây đòn tre đánh nhịp lắc lư
thúng trước chị gái “dãi khoai”
mủng sau em trai cối đá                                 
hàng ngàn chiếc - nôi  - thúng treo trên vai cha mẹ
từ Hà Nam Hải Dương chạy vào Nghệ An Thanh Hoá
đồng bằng thành phố ngược Phú Thọ Thái Nguyên
đói khát sợ hãi kiệt sức đẹn sài
bao đứa trẻ không tỉnh lại

cà niễng thằn lằn sâu chè ếch cốm
bánh mật tháng mười bánh ú tháng hai
cua bấy giữ mai tôm càng tách vỏ  
muồm muỗm nếp mùa chín vàng trên lửa…
hay ăn chóng lớn
chúng con tập lẫy tập đi

mẹ nhằn hạt na cha nhai dập mía
trứng rùa trứng rắn mẹ ăn lòng trong phần con lòng đỏ
con nghẹn cá nạc
bố nhằn xương vây…
 
III
Cha có niềm vui ngâm thơ hút thuốc uống chè
tết nhất tổ tôm
hội hè cờ tướng
mẹ vào bếp ra đồng tứ thời bận rộn
ma chay cưới hỏi môi thắm quết trầu
đình đám giỗ chạp áo xống mới lành
ra sân chùa xem chèo khăn vấn khăn vuông mới nếp
nắng đội nón lá mưa quàng áo tơi
mùng một ngày rằm lên chùa lễ Phật
xoa chân xỏ dép mo cau
cơm chiêm niêu đất cà dừa dầm tương
bún riêu cua rau ghém ngó cần sung nếp
 
mẹ ru con toàn những khúc ca buồn
bước xuống vườn cà trèo lên cây bưởi
ai về phố Suôi ai qua làng Hối
“chiều chiều ra đứng ngõ sau…”
cùng ngậm ngùi tuổi Thân cha mẹ nấp bóng nhau
con không biết ngày đẻ tháng sinh
mẹ mới chỉ kể  “ngày ấy cha mẹ gặp nhau…”
                                             con đã chìm vào giấc ngủ
nghe đi nghe lại con vẫn vô tâm không nhớ
cha mẹ gặp nhau thương nhau khi nào
ngày nào chạm ngõ ngày nào rước dâu
con cũng chưa kịp hỏi bà sinh mẹ ở đâu
có bao điều về ông bà cha mẹ con hoàn toàn không biết
những dữ liệu của một thời quá vãng
chưa kịp ghi vào ổ mềm trong lòng
ổ cứng trong tim
thời gian xoá hết !

giấu thân gầy trong áo nâu yếm gụ
gậy tre vót nhọn mũi xuyên vào đất
chân mẹ vẫn xiêu lưng cha vẫn lệch
bao buồn lo nén chặt trong lòng 
nhễ nhại trưa hè tái nhợt đêm đông
tóc rụng tóc rối quấn chuôi lược sừng
cuộn thành trái táo trái cà treo ngọn na cành vối

IV
Để lại những bài học thuộc lòng suốt tuần không ngó tới
mớ quần áo trai làng trai phố chật căng sứt chỉ mẻ khuy
dăm vần thơ ngớ ngẩn vài câu hát vu vơ
viết nguệch ngoạc trên cột nhà cánh cửa
nhưng lại hoàn toàn không hay biết nỗi buồn lo
                                  nghẹn tim thắt dạ mẹ cha
từ lúc biết đứa con hứng hoa nâng trứng sắp đi xa

ăn bữa cơm cuối trong nhà mình
chỉ còn đêm nay ngồi trước ngọn đèn dưới mái nhà mình
đủ anh chị em
còn cha có mẹ
chỉ vài giờ nữa lên xe ra trận
chợt giật mình nhận ra những điều ngỡ xa lạ lắm
lưng cha còng  từ bao giờ sao mình không biết
cánh tay mẹ gầy guộc
mỗi ngày đơm sáu bát cơm độn khoai trộn ngô cho mỗi đứa con
                                                                    ta cũng chẳng hay
đàn em thơ dại cao gầy lêu đêu
trái bếp gió lùa mái rạ mủn mưa
mấy chiếc cột nhà hình như đã mọt  
mười tám năm sinh ra trong nhà mình lớn lên ở nhà mình
ta như người xa lạ !  
 
không kịp nữa rồi
xe nhận quân đã sắp về làng
cờ, khẩu hiệu đỏ sân hợp tác
sao ta không nhận biết sớm hơn
vài tháng
vài tuần
vài bữa
 
không còn kịp nữa                                            
xe chật đường thôn trống giục ngoài đình                        
ta nào biết
cha mẹ anh em không bao giờcòn đủ đầy như thế
                        
V
Cha chưa lên thủ đô
mẹ mới ra khỏi huyện
vẫn biết chúng con đói quay đói quắt ngoài trận mạc 
nhiều lần dạt qua biên giới
lắm khi bị vây hãm trong hang
vẫn biết chúng con ngủ hầm sưng khớp nằm võng vẹo lưng
sốt rét vàng da sưng gan phù lách…
cha mẹ còn biết
lẫn trong lá xanh có loài rắn lục
cá sấu lặn dưới nước đục nhử người xuống tắm ở quãng nước trong
hổ báo rình mồi cạnh lối mòn
rừng cháy suốt đêm
                    những người lính vẫn chết trong cơn rét
tầm tã mưa rừng khốc hại mưa bom
dưới mỗi mái nhà
những người mẹ người cha đều biết
dù thư gửi về cả năm chưa đến 
thư nào chúng con cũng an lòng cha mẹ :
- quân ta toàn thắng !
- bọn giặc toàn thua !

chúng con bắn súng quen tay
                               mắt to mắt nhỏ
                                            má sạn vai u 
vẫn không ngờ viên đạn sắc nhọn
         xuyên thủng lỗ chỗ giấc ngủ của cha
                         xé toạc giấc mơ của mẹ
cả khi đạn bom làm thủng thịt gãy xương chúng con đau xé    
trong cánh võng vải nhẹ bẫng ướt sũng mồ hôi
những người lính không tỉnh dậy sau cơn co giật
ở quê nhà hình như mẹ cha đều biết 
đau nhói ruột gan
nước mắt chảy ròng
cày rời tay cha
bò tế
trâu lồng
đom đóm nổ trong mắt vàng lét xanh le
mẹ rùng mình như trúng gió …

những người mẹ người cha
có con ra trận
có con tử trận
chết mòn chết dở bao lần
trước khi chết thật
__________________________________________________________________________________________

khúc thứ Ba
HOÀ BÌNH CHIẾN TRANH 
ĐÀN ÔNG & ĐÀN BÀ
 
“NGẢ LƯNG” GIỮA HAI CUỘC CHIẾN

I
Với nhiều người Việt từng sống
đang sống
Thế kỉ Hai mươi dài
cực dài
chỉ Thập niên Sáu mươi đã lâu như cả  thế kỉ yên bình
                                                           từng trôi qua lặng lẽ
Tây Ban cầm sáu dây
cây đàn huyền diệu của văn hoá văn minh nhân loại
không dễ độc tấu hoà tấu mười chương khúc của
                                                   Thập kỉ Sáu mươi
ta thửa cây đàn mười hai dây ghép bằng sắt gang tre nứa
chỉnh đàn đến không thể căng thêm
để dây khỏi đứt tung
âm thanh không lạc
thấp hơn nửa cung cao hơn nửa nốt
năm tháng
                  hàng phím lõm !…
 
sau chín năm kháng chiến
những người lính Trung đoàn Thủ Đô
                                              Đoàn quân Tây Tiến
tuổi nghấp nghé ba mươi bốn mươi
đang sung sức giữa thời trận mạc  
mấy triệu tráng đinh thợ cày thợ mỏ
khoác trên mình quân phục
đủ sức đuổi giặc đến mũi Cà Mau
bịt chặt các cảng Đà Nẵng Sài Gòn
không để giặc ngoại xâm đổ bộ lên đất liền lần nữa  
những đại đoàn chủ lực
Quân Tiên Phong Chiến Thắng Đồng Bằng... bừng bừng nhuệ khí
hạ trại ở Đồng Lê
án binh quanh Nhật Lệ
dừng cuộc trường chinh ngay trước Khu Phi quân sự Vĩnh Linh
những người lính từng trải im lặng nhìn nhau
đất nước phải chia đôi ? 
không thể hiểu
không sao hiểu nổi !
Vĩ tuyến Mười Bảy
Vĩ 
        tuyến
                     Mười
                                Bảy
                                      !!!
                                             ???…
(ghi chú: năm 1954, Việt Nam có thể đủ sức thắng Pháp, giải
phóng cả nước, nhưng lại kí hiệp định Giơnev chia đôi lãnh thổ.)
               
II 
Sau ba ngàn ngày chiến trận…
những dàn đại bác nguội dần
vỏ đạn, xác ca nô đợi hoá thân
thành nồi đồng điếu chảo gang
trăm vạn chiến binh náo nức thay nhau nghỉ phép
bao cô gái quê xốn xang ngóng trông bộ đội về làng
mơn mởn con gái tỉnh Đông xứ Đoài đồng dâu bãi mía
vừa kịp dậy thì
những cô hàng xén hàng tấm Hải Dương Bắc Ninh Nho Quan Phủ Lý
chải mượt tóc bồng lá bún
mơ làm “con dâu Cụ Hồ”
vợ vệ quốc quân 

từ thủ đô gió ngàn, Sầm Nưa Mường Lát
khoác áo trường chinh về lại kinh thành
những sĩ quan không cấp bậc quân hàm
oai hùng giầy đen
áo đại cán Tôn Trung Sơn bốn túi 
lọt mắt xanh tiểu thư Hàng Bạc Đồng Xuân
chiến binh của những trung đoàn thiện chiến
                      Bắc Bắc, Thủ Đô, Tu Vũ        
                                           (ghi chú: thuộc Đại đoàn 308)
hành quân ngang dọc giấc mơ thôn nữ
khăn nâu đồng tiền khăn đen mỏ quạ                  
Từ Sơn Lục Ngạn Canh Diễn Nhật Tân…
                                                             
mẹ chồng sinh thêm con út con thêm        
nàng dâu hai năm ba lần vượt cạn
làng quê phố thị râm ran pháo cưới
những cô đỡ trẻ các bà mụ vườn
bao năm nhàn nhã chân tê tay dại
ngày ngóng người mời đêm chờ kẻ gọi
bây giờ tất bật đi sớm về khuya

“từ nay bom đạn hết rồi
con thuyền xuôi ngược thảnh thơi giữa dòng…”           
trẻ trồng na già giồng bạch đàn
xẻ đá nung vôi đắp lò nướng gạch
Thẻ Nhận ruộng trường tồn cùng phim ảnh
thành báu vật trong các viện bảo tàng
 - kỉ niệm một thời gửi tới mai sau ?
ruộng mới nhận vừa chia lại gom vào hợp tác
“chiêm mùa cờ đỏ ven đê
sớm hôm tiếng trống đi về trong thôn”

chỉ vài trăm người biết
bộ đội công binh sắp mở đường mòn dọc Trường Sơn
chỉ mấy chục người hay
những con tàu không số đang âm thầm rẽ sóng biển Đông
                                     vạch Đường Hồ Chí Minh trên biển
cây dương cầm cũ dưới tán đại ngàn phát ra từng chùm hợp âm
                                                                 kết thành giai điệu   
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước viết những nốt nhạc mở đầu
                                      hành khúc Giải phóng miền Nam
 
lại
      có
           chiến tranh !
chiến tranh
                      sắp
                             nổ
                                    ra !
những người làm mẹ làm cha
giao thừa năm ấy vẫn không ngờ cuộc chiến khốc liệt đã rất gần
Tết ấy với bao cuộc đời đã là Tết cuối
 
“cả nước lên đường
xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục”
con trai lớn nhập ngũ
bố hoãn phục viên
cỏ thao trường chưa kịp hồi sinh
lại dập nát dưới đế giày lính mới
chồng thôi làm nhà ngói
vợ bán bò
               chặt tre
                  đong thóc
                        trữ sắn khoai
con gái vội lấy chồng
gấp gáp đẻ con trai
cả những người dân thường cũng hiểu
chiến tranh lần này dằng dai khốc liệt
vợ chồng li tán
gia đình nát tan
chục triệu người Việt Nam mang thương tích suốt đời
mấy triệu người sẽ chết !…

NHỮNG ĐỨA CON KHÔNG THỂ TƯỢNG HÌNH

Ngay cả trong chiến tranh
mỗi khi ém quân trong rừng
lính khoẻ mạnh như đi an dưỡng
không khói xám khói đen nhà máy
không chất độc hại phun từ đủ loại động cơ
cá suối thịt rừng bột trứng lương khô
gạo nếp nấu chè đậu xanh ngâm giá
chiến dịch chưa mở màn
binh lính nhàn cư
chỉ huy nhàn nhã …

không sợ thồ balô nặng trĩu đi bộ mấy tháng suốt Trường Sơn
không sợ hùm beo rắn rết
không sợ đạn bom
chất cháy vỏ chuối chất độc da cam     
những cái chết đủ hình đủ dạng đeo bám rình rập đợi chờ…
chúng tôi
những người lính đàn ông con trai mạnh mẽ
mười chín, ba mươi tuổi
sinh lực căng tràn
công nhân khuân vác Bến Bính, Phà Đen
chân sào thuyền buôn
                vai nổi u hằn vết thừng chão kéo thuyền
                                    xuôi ngược sông Chu sông Mã
lực điền Quảng Bình
tráng đinh Thanh - Nghệ
thợ sơn tràng Hòa Bình
trai Cầu Vồng Yên Thế…
lưng săn ngực nở vai đầy
đùi ếch chân dê tay càng cua biển
mụn trứng cá dày như kiến
không e ngại bất kể điều gì                   
chỉ khổ sở vì dư thừa năng - lượng - đàn - ông

Thập kỉ Sáu mươi
đã có mấy người biết khái niệm đồng tính đồng giới
lính trẻ chúng tôi chưa được ai chỉ bảo cách thỏa mãn mình
chưa phải kiểm thảo không bị cản ngăn
cứ ngỡ đã phát kiến ra điều kì diệu !
dừng chân một đêm ở rừng tre
rừng chuối
          mắc võng mấy ngày đợi hành quân tiếp 
mưa đầu mùa
măng tre mập mạp tua tủa mọc lên
năm bảy chồi non chen chúc nẩy từ thân chuối mẹ
ông già Xêđăng bập thuốc rê sâu kèn nhả khói cười kha kha :  
 - chưa có khi mô… như rứa ! 
                                  
quẳng balô xuống cỏ
dựng súng gốc cây
nằm lăn trên lá khô đá tảng
duỗi chân dang tay
ăn dăm bảy bát cơm măng vầu mắm ruốc
lính phởn phơ sức lực lại ứ đầy
 
những chiếc võng lép kẹp vỏ đậu nhẹ bẫng tàu dừa 
những chiếc võng nặng trĩu căng phồng
đố tục giảng thanh
chuyện tiếu lâm chuyện phòng the chăn gối
râm ran rôm rả rúc rích tiếng cười
những người lính da trần như nhộng
nằm ôm nhau ngủ chung võng suốt đêm
võng một hóa võng đôi
trĩu nặng
               dềnh lên
                           dập xuống
                                            như thuyền
dây võng níu căng
                           ngả cây
                                    tróc vỏ
sên vắt thức giấc tìm mồi
rào rạo lá khô
dưới những tấm võng
                          có từng đám kiến nâu kiến gió… 
(ghi chú: 2 dòng này theo như bản gốc, trước khi biên tập)
 
- không thế
suốt đêm nhiều đêm chúng em mất ngủ            
- không làm thế
có khi phải tìm vô bản
tụt lại dọc đường
vào rừng phát rẫy
lấy vợ Vân Kiều
bám xe nhảy tàu
lội bộ đào ngũ về quê…

sau những cơn vật vã trăn trở bất an 
được giải tỏa                         
những người lính ngủ ngon ngáy pho pho như sấm
gương mặt dãn chùng thảnh thơi mãn nguyện
nụ cười bí hiểm đậu khóe môi
bao bạn bè đồng đội
                               chỉ vậy
                                            rồi
                                                    thôi  
mang đủ nỗi khát thèm xuống Đất
hương vị trái Đào Tiên chỉ có trên Trời !
tình yêu tình dục
nghe kể rồi tưởng tượng
không sờ tay không nhìn tận mắt
bạn tôi em tôi chết trận
riêng điều ấy
                     mười mươi
                                     có thật !
chôn vội lấp vàng những thi thể con trai
chưa từng cọ sát da thịt phụ nữ mỡ màu ấm nóng
chưa nhìn thấy ngồn ngộn thân hình đàn bà
không bị lá chuối áo tơi nón mê che khuất                
những đứa con – một – nửa
                        không thể tượng hình
                                     từ trăm ngàn người lính
thành máu thịt sên vắt kiến gió kiến nâu
đom đóm lập loè bay
hoang dại rừng xanh hun hút vực sâu

Thập kỉ Sáu mươi
Thập kỉ Bảy mươi
đêm dài như tháng
tháng bằng cả năm
đàn bà sợ tuần rụng trứng
đàn ông uổng phí tinh trùng…
(ghi chú: 2 dòng này theo như bản gốc, trước khi biên tập)

NGƯỜI ĐÀN BÀ CÓ CHỒNG TRONG NHÀ
 
Sống với nhau mười mấy ngày anh vào Vệ quốc
xa cách chục năm chị đã ngót ba mươi
chiến thắng Điện Biên
sau vài lần “nghỉ phép mười hôm” anh được giải ngũ về quê
người lính nào chẳng muốn “nghỉ phép suốt đời” như thế !             
thoả sức đắp bù
“ăn giả bữa” cả đêm “ăn vã ăn vụng” suốt ngày
có khi mong trời mưa
muốn cả làng đi vắng
lắm lúc không dám tin là thật

có chồng trong nhà
tháng trước
                 tháng này
                                tháng nữa…
đêm nào cũng quấn lấy chồng
đêm nào cũng được chồng ôm
chị nói thầm
hát thầm
cười thầm
thẹn thầm
rưng rưng
nghẹn ngào…
mặc kệ chồng lo toan những điều to tát
cột nhà cái trên vai anh
chị chỉ biết làm vợ
làm mẹ
làm dâu
quảy rơm gánh rạ đánh đống ngoài vườn
không để gió lùa máng lợn cũi trâu
không để dột bếp tàn tro nguội lửa
chị vá buồm se thừng phơi chão tát nước lòng thuyền
dây lèo bánh lái đá ngầm bãi cạn đã có chồng lo
chị chỉ biết  làm mẹ làm dâu làm vợ
hương hoa trên ban thờ
gạo muối sẵn trong thưng …

tóc dài óng mượt bồ kết lá chanh
ngát dịu bạc hà hương nhu hoa bưởi
đằm duyên nhuận sắc
lắm khi chị giật thót nghi ngại chính mình                    
hơn hớn lúa chiêm tháng ba
           rạo rực đê mê đón sấm                            
gió heo mật trèo ngọn mía
cuối thu trời lạnh se se
nắng hanh vàng rực ngọn cây
da dẻ đàn bà nứt căng đỏ lựng
nhìn vợ
anh tặc lưỡi
 dựng cày
   buộc trâu
       kéo rào dấp ngõ
lỡ buổi làm đồng…

chỉ đủ vợ đủ chồng ngần ấy tháng năm
kịp có ba con đủ cả gái trai                         
nhà lợp rạ ba gian
vườn ba sào tươi tốt 
vững chãi cột gốc xoan đào  
mái ấm gia đình
nắng không hắt gió không lùa mưa không dột 
con
chụm chân kiềng chóng lớn mau khôn
vợ
thị thơm muỗm ngọt mơ chua 
khoai mầm mật ứa
thóc giống căng bồ
mít chín thơm đến cùng
ớt ương cay tột độ
xanh mướt thài lài phân gio đủ độ
chồng
dẻo trâu lò mật dai sức bò cày
hăng như ngựa kéo
hả hê mưa nhàu cỏ bợ
vợ chồng đầy dầu dài bấc
giếng đá ngọt lành dây gàu săn chắc
anh cày em cấy vui thú đến trăm năm…

như con sẻ đồng linh cảm trước bão giông
gió lệch hướng bợt da mưa muối chanh xót dạ
mùa thu năm ấy lạnh lẽo qua nhanh
gió bấc lạnh ngắt tràn về
mưa phùn giấu nước vào mái rơm
không bay lay phay không ngưng thành giọt
khói bếp bay là ngọn cau chẳng chịu lên trời…    

tổng động viên !
tất cả cho tiền tuyến !
chồng chị cùng chồng những người đàn bà trong làng ngoài phố
chia tay vợ con cha mẹ họ hàng   
chia tay những năm tháng chóng vánh hòa bình
hai lần ra trận cách nhau mười mấy năm
bỏ lại những người ruột thịt đông gấp mấy lần
đàn ông từ nay khát da thịt vợ
phụ nữ thiếu cơm thèm vải
nhịn đàn ông đói cháu con…

NGỌAI TÌNH

Thập kỉ Sáu mươi
khi đêm đêm ở rừng những người lính trăn trở
                                      trong cánh võng đơn võng đôi
dưới võng có những đám kiến nâu kiến gió…
ở bao miền quê                              
hàng triệu cô gái tươi tắn ngoan hiền
giật mình hốt hoảng lo sợ
   lần “có tội” đầu tiên
rồi mông nổi
 vai nây
    ngực nở …
những người đàn bà rất mực Đàn Bà
ba mươi hai tuổi bốn mươi mốt tuổi
vú căng bưởi đào quệt vôi đợi Tết 
mông đùi đàn bà rừng rực ba đống rấm cháy lụi gộc tre …         
từng tế bào trong xương chuyển hóa
mùa xuân thứ hai của phận đàn bà
chồng còn sống mà như vợ goá

hồi xuân
tái xuân
da thịt nà nuột tươi nhuần
nhấm nháp ngốn ngấu chính mình
những người đàn bà sung mãn
đêm uống “ nước sông ” ngày ăn “ cơm nhạt ”
hồi xuân
tái xuân
bữa tiệc cuối của phận đàn bà
cơm canh chẳng người đụng đũa
xôi khô
chè vữa !...
những cô dì thím mợ trong họ ngoài làng
cơm độn sắn khoai ăn còn lửng dạ
dáng vóc phổng phao chân tay chắc nịch              
nhạt mùi chồng 
quên hơi hướng đàn ông
               
“ruộng đồng của ta  thẳng cánh cò bay        
chồng cày vợ cấy thỏa chí từ nay…” 
ruộng đồng ngày càng dài rộng
vẫn như ngàn năm con trâu đi bừa
vẫn thế
  muôn đời
    vợ cấy
câu ca dao bao đời hóa thành hoài niệm
những người đàn bà cày ngầm ruộng chiêm
nước ngập đuôi trâu
nước ngập bụng em                                  
   loang đỏ !...
như cò đậu ngọn cong
vạc bám cành mềm
quanh năm lầm lụi bới khoai mót lúa 
“từ ngày anh đi việc đồng em giỏi dang
ruộng cấy chăng dây cây lúa thẳng hang”

II
Lợn tơ động đực bỏ cám phá chuồng
xệ lườn vịt bầu
ướt mào gà mái
trâu nái cà lưng bóng nhờn cành duối
bò sữa cọ hông nhẵn thín gốc si
dửng dưng nhìn cỏ mật lá mía bẹ ngô …

gặp gỡ
         làm quen
   yêu
  cưới “ tập đoàn ”
   chỉ có mấy ngày trời  
rồi xa nhau
người ra trận hẹn về
người hậu phương hứa đợi   
                                    
mười chín năm con gái
làm đàn bà hai đêm
lạ
quen
biết dăm ba điều
còn bao chuyện hay ho chưa biết
khế chín dở ngập răng vài miếng
rượu nếp cái hoa vàng mới ướt nửa môi
thực tập làm đàn bà hai đêm
lại sống đằng đẵng như thời con gái
nhưng làm sao còn có thể yên ổn
    thanh thản nhẹ nhõm như xưa
cái thời chanh mọng cốm mềm có khi nào trở lại!
sẽ không còn phải sống như con gái  
chín năm
 mười tháng
   bốn bữa
  bảy giờ
nếu chị không quên lời hứa
không quên đã từng làm vợ
không phản bội
ngoại tình
             
ngực bung cơm mới
đùi giật hông rung
vú nở tuột khuy
mông cồn giãn vải
khoả thân tắm ao bèo nóng rẫy ngứa ran da thịt
chỗ nào cũng như có dấu răng vệt môi
cháy bỏng mười ngón tay chồng vuốt ve xoa nắn
đêm giá lạnh
 chẳng cứ gì đêm lạnh
chạm giường chiếu sởn da gà 
đụng gối chăn giá ngắt
chị buông màn
 thổi đèn tắt phụt
 giật tung dải rút
 dứt vỡ khuy cài…
chăn bông nặng cuộn tròn đè thân vồng căng cứng
                                               
giường lún
          giường nghiêng
             giường gãy
     giường sập
  trong mơ  
mơ như thật
            bủn rủn
   rã rời
 toạc màn 
  thâm chiếu…

những giấc mơ nhiều công lắm tội
đê mê khoái lạc
chị thăng hoa thành Súy Vân
mê dại tựa Thị Mầu…
thành cây chuối mật nghiêng ngả trong vườn
bẹ lá tươi xanh ruột âm ỷ cháy…
những người đàn bà khao khát tình yêu khát thèm ân ái   
da thịt có gai có lửa   
ong bay khắp dạ
kiến nhằn trong xương 
lan toả xạ hương
rạo rực tê mê những vùng nhạy cảm
cơ thể giao động run rẩy
 căng mặt trống 
   bỏng dây đàn
gánh nước nửa đêm tưới đầm vườn nhãn
xay vài thúng thóc giã nửa nong ngô
đủ sức làm “ đo ván ” dăm bác thợ nề vài ông thợ mộc
nhưng trong làng ngoài xã làm gì có đàn ông
làm gì có thợ nề phó cối  
kiếm đâu ra đàn ông đáng mặt đàn ông khoẻ mạnh tự do
ở lại hậu phương
đàn ông vẹo lưng lệch vai
đầu to chân ngắn tay dài
ưa tuyên truyền thích giảng rao đạo đức
bị trói buộc bởi bao danh xưng chức phận
may mắn lọt sàng vài mống thực sự đàn ông
họ lập tức bị giành giật chiếm giữ
ốm o gầy mòn 
hồn vía đêm ngày chịu giam cầm
thân xác sớm hôm bị ngấu nghiến

có chồng hai đêm
             chị chỉ là đàn bà tập sự
thi cấy ở xã thi cày trong thôn
nửa đêm vùng dậy tát nước gàu sòng
uống nước mưa mặt cũng đỏ nhừ như say rượu                     
tứ thời kìm nén
quanh năm khát thèm  …
vụ chiêm lại vụ mùa
năm Mùi đến năm Thân
thực tập làm đàn bà hai đêm
đàn bà chính thức
   gần mười năm thất nghiệp

khép hờ cửa buồng
lách vạt ngô già
nấp bụi mía non
thịt da ngút lửa tự đốt tự thiêu
trưa ôm bao thóc
chiều ghì cột nhà
đêm quặp chăn
ép gối… 
 
III    
Mười năm
   mười lăm năm
  hai mươi mốt năm… 
vẫn chỉ sống như thời con gái
nếu chị không hư hỏng
nếu chị không phản bội 
nếu chị chẳng ngoại tình
                              
chân đê gió mát trăng thanh
ngồn ngộn rơm phơi
rạ chưa kịp bó
phát cuồng hai kẻ “gian phu dâm phụ” 
quấn chặt nhau
như rắn
như mèo                                                  
lửa cháy không buông
nước dâng chẳng bỏ
lăn lộn
 giẫy đạp
 cấu cào
gãy đậu
 dập vừng
  chìm bèo
   nát cỏ…
nửa đêm về sáng đồng xa vắng lặng  
hồng hộc hơi thở
hổn hển tiếng rên
trong làng ngoài xã không ai hay biết

nhưng có một bóng người nước mắt rơi lã chã
những giọt lệ vô hình người sống không nhìn thấy
chồng của người đàn bà ngoại tình đã về đến quê hương
ngày đậu trên ngọn muỗm sau miếu
đêm đánh đu cành thị cổng chùa 
ba năm rồi anh theo mây gió
lồng bồng trong nắng
lướt thướt trong mưa…
__________________________________________________________________________________________

khúc thứ Tư 
TIẾNG NÓI VIỆT NAM
 
I
Học tiếng cành cây rơi
âm thanh chùm quả rụng
nước chảy
mây bay
vượn hót
chim gù
tiếng sóng thét gào biển bão
rừng tre cọt kẹt võng đưa…
đời trước dạy đời sau
động tác ở tay chân
âm thanh từ miệng
tiếng nói lời chào thay hú hét
cha mẹ dạy con
trai gái tỏ tình…

khác nhau nóng lạnh khác nhau nắng mưa
thảo nguyên bao la bình nguyên bát ngát
đất đai dị biệt khí hậu bất đồng        
tiếng nói con người mỗi nơi mỗi khác
không hiểu lời nói
thay bằng nhựa cây sỏi màu gạch đỏ than đen
- em thương anh
- anh yêu em
vẽ hình cá chép vẽ hình chim công
nói bằng da thịt …

lời nói nơi này bổng trầm thơ nhạc
nơi kia lanh chanh líu ríu như chim 
có lời êm nhẹ sương rơi lá rụng 
có câu nặng trịch sỏi lặn cát chìm
sáo diều chín ống đàn đá sáu thanh
giọng nói mẹ ta có thơ có nhạc
thương giận sáu cung
buồn vui sáu bậc :
sông
  dài
 nước
 lặng
  mảng
 gỗ  
  lênh đênh           
(ghi chú: tương ứng 6 dấu trong tiếng Việt)

tiếng hạc lưng trời từng giọt trong veo
trầm ấm mõ vầu
giòn sênh nẩy phách
được lời cởi dạ miệng nói mắt cười
dỗi hờn chì chiết quang đứt mẹt trôi…
                         
bà ngồi nhai trầu 
tay đưa võng gai miệng kể ngày xưa
mẹ ta đánh khẽ giơ cao
la mắng chỉ ví von
răn dạy toàn ca dao tục ngữ :
“ương như ổi xanh
nghịch như quỉ sứ
chớ ăn thùng bất chi thình
một điều nhịn là chín điều lành
vụng may sao bằng khéo vá…” 
 
II
Hàng triệu trang giáo trình, hình ảnh…
Hà Nội
          in tại Cục Tác chiến
Sài Gòn
  soạn thảo ở Bộ Tổng tham mưu
chỉ dẫn cặn kẽ 
   doanh trại ở đâu
 nơi nào có kho bom đạn
 lô cốt mấy ngăn
  rào gai mấy lớp
phải rải thảm cánh rừng ấy bằng B.52
hủy diệt khu đồi này bằng trọng pháo…
chữ viết hoa ngang dọc thẳng hàng 
đều tăm tắp như đội quân danh dự
số đen chì than
chữ xanh mực nước
bay bướm
   sắc sảo
   ngang tàng
viết từ bàn tay tài hoa của những người có học
từng tu nghiệp ở Mỹ ở Nga
không ít người trong họ thực sự có tài
tất cả
viết  bằng chữ Việt !

những tư lệnh chính ủy quân giải phóng
quân phục gabacđin cỏ úa Tô Châu
tướng lĩnh Sài Gòn
bận đồ trận kaki xanh dương Tếchdát  
chụm đầu bàn định những kế hoạch tuyệt mật dưới hầm sâu
cách nhau vài trăm bước chân
cũng có thể cả ngàn cây số
chiến tranh
bên nào cũng muốn chiếm giữ nhiều đất
giành giật nhiều dân
nhưng mục tiêu tối cao ý đồ tối thượng:
      - tiêu diệt thật nhiều “địch quân”
chiến tích càng lẫy lừng
nếu đối phương có thật nhiều binh lính sĩ quan bị giết !
tất cả
nói bằng tiếng Việt !
        
những người lính dù, biệt động
đội mũ bêrê mặc đồ trận rằn ri
dàn quân xông lên đồi
vừa bắn vừa la                
 - mồ tổ tụi bây                                       
 - hạ súng đầu hàng hay chịu chết !…
chiến sĩ giải phóng
tiểu liên AK gắn lê nhọn hoắt
lựu đạn xếp chồng trước mặt
mấy cậu lính trẻ văng tục
- mả mẹ chúng mày     
rồi hạ quyết tâm
- còn một người vẫn còn trận địa !
lời qua tiếng lại
      đe dọa
         thách thức
 giọng Bắc giọng Nam  
 tiếng nặng
  lời thanh … 
tất cả
nói bằng tiếng Việt!
       
đạn AR.15 bắn gần khoan vào trán găm giữa ngực
những người lính đội mũ tai bèo đổ gục
như măng vầu gãy ngang
mía non bật gốc
lời cuối cùng lọt qua cặp môi hết máu
 - mẹ…ơi !…
tốp lính Sài Gòn lò dò đặt chân lên sườn đồi
hứng trọn những loạt AK. vào đầu vào ngực
chìm trong quầng lửa mìn cờlâymo chói mắt
la hét hoảng loạn
- Trời Phật ơi !
- em ơi !
- các con ơi !
những tiếng la lạc giọng lịm dần
ằng ặc trong ồ ồ máu xối
chú lính thông tin còng lưng cõng máy bộ đàm
khuôn mặt non choèn mới hết tuổi trẻ con
ruột sổ lòng thòng kéo lê trên sỏi đá
khóc hù hụ
thều thào kêu ba gọi má !…
tất cả mọi người
nói bằng tiếng Việt !

những người dân nghèo trồng lúa trên khắp cù lao
   sông Tiền sông Hậu
đốt than đước rừng ngập mặn U Minh
nuôi tôm sú ở Năm Căn  
chở thuê dưa hấu Gò Công
bán mì gõ ngang cầu Ông Lãnh …
có người nhà bị bắt đi quân dịch
vô lính cộng hoà làm dân vệ bảo an 
đêm đêm vàng mã đèn nhang
mùng một ngày rằm hoa trái lên chùa
van vái cầu xin cho chồng con được giải ngũ
có dính đạn bom cũng chỉ  “sơ sơ chút đỉnh ”
những người đàn bà thợ dệt Nhà máy Mùng tám tháng Ba
những công nhân seo giấy tập dưới chân núi Đáp Cầu
chẻ gỗ làm diêm Thống Nhất bên bờ sông Đuống
đội than ngoài Uông Bí Cửa Ông
cày cấy trên những cánh đồng năm tấn Lý Nhân Tiền Hải
có chồng con ngoài mặt trận                    
sớm mai ngủ dậy chỉnh tề áo khăn                                
một lời không nói
nửa miếng chưa ăn
chắp tay khấn vái cầu xin Trời Phật Tổ tiên
phù hộ độ trì người thân thoát mũi tên hòn đạn…
tất cả mọi người
nói bằng tiếng Việt !                                 
                       
tiếng Việt Nam tiếng mẹ tôi
Nguyễn Du viết Kiều
Đoàn Thị Điểm dịch Chinh phụ ngâm
Cao Văn Lầu soạn Dạ cổ hoài lang
người Huế hát Nam ai Nam bằng
Phú Thọ
   trống quân hát ghẹo hát xoan
liền chị liền anh Bắc Ninh mời trầu giã bạn…
tiếng Việt 
Xuân Quỳnh Lưu Quang Vũ làm thơ viết kịch
những đêm trăng Thanh Tước
    rừng bia mộ long lanh sương đọng
vẳng trong gió não lòng
khắc khoải ngẹn ngào
xót đau day dứt
“Người Đàn Bà Hát”
   hát 
   “Nỗi nhớ mùa đông”
                      
chữ Việt thời chúng tôi sống
én bay ngược gió
cá lội ngược sông                
tiếng Việt thời chúng ta sống
hoạ mi hót trong bão giông…
______________________________________________________
 
khúc thứ Năm
HÌNH NHƯ AI CŨNG KHỔ

NHẰN TRẤU NUỐT GẠO

Ngày ấy dòng điện còn ngủ vùi trong lưu tốc sông Xêsan sông Đà
dầu ứ đọng từ mấy triệu năm trong các địa tầng dưới thềm lục địa
chủ Pháp cũ giám đốc Việt mới vét sạch sành sanh những
    vỉa than lộ thiên ở Hồng Gai Cẩm Phả
chỉ còn than béo than non ăn ngầm dưới thăm thẳm đất sâu
những giống ngô nuốt vào bụng giấu trong búi tóc
mang về từ xứ người đã mấy ngàn năm
nay gầy guộc thấp tè
chen chúc với cỏ gừng cỏ gấu
thóc lép mỏng nhân dày trấu
thoái hoá hai vụ chiêm mùa
thóc Ỏn gạo Dự nếp Quýt tám Xoan dẻo ngọt thơm bùi
sàng sẩy mỗi sào dăm bảy thùng
          nia thừa nong thiếu
gà ri nhẹ như trái dứa
lợn ỷ lợn Mường nhỉnh hơn đon lúa
dai dẳng chiến tranh
suốt đời túng đói
câu ca buồn bao đời truyền lại
“tứ thời rau muống tứ thời tương”
đình miếu thấp le te
chùa Một Cột nho nhỏ xinh xinh
gánh hát
chiếu chèo
chéo khăn
mụn vải
nước lọ cơm niêu ngô đèo khoai rãi
da ếch bịt trống
bầu khô làm đàn
quạt mo
gối nan
tương cà gia bản
vẩy cá hơn lá rau
chõng nứa giường tre một đời chồng vợ
râu tôm ruột bầu
xuống bể mò cua lên rừng hái bứa
ngả vại tương bần
trưa chấm sắn luộc tối trộn ngô bung
con mơ thịt vịt dầm tương
vợ thèm bánh đúc      
chén mắt trâu hạt mít
chồng nhấp từng giọt rượu sắn rượu khoai

những năm chó Laika đã bay vào vũ trụ
người quê tôi đau bụng cũng chỉ nuốt gừng
nhức đầu xông ngải cứu cúc tần
bong gân quệt vôi dập xương bó lá
thầy giáo làng thu học phí bằng mủng khoai 
               mảnh vải diềm bâu, xâu cá
mẹ chỉ đủ tiền mua dép lốp cho chị gái sang Phủ Lý học lớp ba
tôi vào lớp một
chân đất dẫm gai bồ quân
tủi thân nằm ôm chó đá cổng đình
nửa đêm mẹ ra góc vườn ngồi khóc
tháng tám dốc bồ ngày ba giáp hạt
khói chỉ bay loãng tuếch trên mái bếp cuối ngày
nửa làng ăn xin
cả xóm ăn mày
trẻ trâu đói lả bẻ mía non
người lớn vặt trụi ngọn khoai lá đậu ngoài đồng
chết đuối
    lặn xuống ao trộm cá   
ngã gẫy chân tay
   trèo cây hái mít xanh
bần hàn cố đế
túng quẫn thâm căn
vay mượn truyền đời
nợ nần mãn kiếp
sợ hãi ngấm thịt xương
buồn đau hoà khí huyết
                                   
thiếu ăn nên thiếu máu                                
ngồi xuống đứng lên choáng váng sa sẩm mặt mày
đói rỗng đầu
hoa mắt
run rẩy chân tay
bom đạn đi qua bão lụt đi qua xơ xác tiêu điều
đồng ruộng chiêm khê mùa thối
sân đình nước đọng à uôm ếch nhái
gạch lục lát đường cậy bán từng viên
phòng khi thất bát
giàn bếp treo mươi túm khoai lang
đáy cót lúa dăm nồi gạo trong ang mấy đấu
sắn lát vài nia ngô tẽ lưng bồ
ăn dè xẻn khoai chiêm thắc thỏm đợi lúa mùa
cầu Trời lũ lụt đừng dâng bão dông đừng đổ !...
đeo đẳng mấy chục năm
ở Thế kỉ Hăm mốt vẫn không bỏ được thói quen
mỗi khi gặp hột thóc lẫn trong bát cơm
tôi nhằn vỏ trấu nuốt trôi hạt gạo

người đàn ông cuối cùng trong làng khoác lên mình áo lính 
làng quê phố thị rặt con gái đàn bà
cõi nhân gian què quặt thê lương
đất nước có một thời
hình như ai cũng khổ !
          
LÍNH NÔNG DÂN

Xứ sở lúa nước cá ruộng rau vườn
khi giặc dã lúc yên bình
sung quân tuyển lính quốc gia trông vào lực điền tráng đinh
thưa thớt người kẻ chợ !
dấu tích Chân Lạp trên những ngón tay chai sạn
chân Giao Chỉ bàn cuốc đen đúa to bè
gót chai rạn nẻ tứa máu tươi
   ngón quặp ngón toè
mồ hôi dầu ướt đẫm vai u
da sần thịt bắp

chiến tranh chống ngoại xâm
binh lính hai bên khác nhau tiếng nói
chiến thư
   phiên dịch
binh vận
   thông ngôn
lính nông dân thời Lý đánh Tống 
thời Trần chống Nguyên Mông
nghĩa quân Lam Sơn
tượng binh châu Diễn châu Hoan
chém Liễu Thăng xua Mộc Thạnh
đuổi giặc Minh về  “quý quốc”
tử sĩ liệt sĩ được cúng tế hoa trái đèn hương
bình đẳng ở miếu đền
tôn vinh trong sử sách
những người lính Việt xả thân giết giặc nhiều như cây rừng 
trả xong thù nhà nợ nước
   linh hồn siêu thoát nhẹ tênh

nội chiến
người Việt thắng trận huy hoàng
thảm bại
cũng là người Việt Nam !
lính họ Trịnh Đàng Ngoài đánh lính họ Nguyễn Đàng Trong
lính Quang Trung Nguyễn Huệ chém giết lính Nguyễn Ánh Gia Long…
người nghèo đâm chém người nghèo
nông dân giết nông dân
đuổi được giặc ngoại bang lại cắn xé nhau
huynh đệ tương tàn
đất nước chìm vào nội chiến !

lính nông phu thành thạo cuốc cày vụng về súng đạn              
trứng chọi đá đá trơ trứng vỡ
trứng của Mẹ Âu Cơ chọi nhau
tan ra nước
nát thành bụi thành tro
tay chém đứt chân
răng nghiền nát lưỡi
những lính Việt bị giết
được tung hô ở miền này
nguyền rủa ở vùng kia !
kể từ Trịnh - Nguyễn phân tranh
bao nhiêu người Việt chết vì tay người Việt ?

có những thế kỉ những thập niên những năm tháng
      khiến ta hãnh diện tự hào
ngẩng mặt đỏ bừng ngóng mặt trời bừng đỏ ở tít tịt trên cao
phấn hứng căng da nở thịt
người Việt chẳng sợ ai
chỉ sợ lẫn nhau
và sợ chính mình

kháng chiến trường kì
chiến trận liên miên
- đời cha đuổi giặc chưa xong đời con đánh tiếp
nhân loại cúi đầu nể phục nhưng âm thầm lo ngại
đàn bà vắng chồng
không chồng - con gái  
ai cầm súng thay người tử trận ?
người Việt miền Bắc
người Việt miền Nam
mấy chục năm chiến tranh
mỗi ngày bao nhiêu đạn bom
mấy ngàn người chết
chết trận
chết đói
chết rét
chết cô đơn cô quả buồn phiền
mỗi tuần trăng khuyết trăng tròn
mỗi con nước dềnh nước cạn
có hàng ngàn tráng đinh chết trận
như lá tre trong bão bay vèo
sung rụng lấp cỏ gà dạt ao bèo tấm
những người thoát chết suốt đời thương cảm
đêm rằm não lòng
mùng một rưng rưng

lê thê dằng dặc mấy chục năm
thập niên bốn mươi
thập niên năm mươi
thập kỉ sáu mươi
thập kỉ bẩy mươi …                                   
nước mắt người Việt chảy bợt môi sạm má
máu người Việt Nam
tuôn nhão đất
xiêu cây
nẻ đá

ta vượt qua những năm tháng nặng nề bi thương ấy
sự chịu đựng đáng kinh ngạc
người trong cuộc cũng không ngờ
đi qua chiến tranh
như sa cành khế như leo rễ đa như hóc xương gà
bốn ngàn năm
máu người Việt chắt lọc từ cơm cà chuối xanh rau má
thấp bé nhẹ cân
máu trong mỗi thân xác có nhiều nhặn gì đâu 
   người thợ cày tu cạn vẫn chưa hết khát…

may mà Cha Rồng Mẹ Tiên xót thương
mười tám Vua Hùng lo ngại
Tứ bất tử Thánh nhân giật mình
truyền dạy con dân nước Việt biết cách kết thúc chiến tranh
để còn có người trẩy Phong Châu Giỗ Tổ tháng Ba
mở Hội Phủ Giầy
dâng hương Đền Gióng
dựng tháp Báo Thiên
sửa đền Bát Đế
kết đàn hoa tế Biển
thả đèn lửa cầu Trời…

nhưng ta thầm đau thầm tiếc
giá Cha Lạc Mẹ Âu
mười tám Vua Hùng
tiên liệt tiền nhân
Rùa Vàng từng tặng vuốt móng chế Nỏ Thần
Long Vương cho mượn kiếm báu để Lam Sơn tụ Nghĩa…
giúp con cháu thần dân nước Việt
                             tránh được những thế kỉ đau thương
cứu chục triệu người Việt Nam khỏi chết ! 
đừng để chiến tranh xảy ra
nếu nhất định phải xảy ra
không bị đẩy đến tận cùng khốc liệt

nhưng với mỗi quốc gia với từng dân tộc
lấy gì đo đếm để biết chiến tranh nào là nhanh hoà bình nào là chậm
để biết cuộc chiến nào không thể không đối mặt
cuộc chiến tranh nào có thể tránh xa
cuộc chiến tranh nào vì nước 
cuộc chiến nào thịt nấu nồi da

chiến tranh lùi vào dĩ vãng
ta tự hỏi
tự trả lời 
những cuộc thi vấn đáp lặng lẽ trong tim
trong dạ
giám khảo
               thí sinh
      cũng chỉ một người
đuổi chuột chạy  
bình hoa rạn vỡ ?…
___________________________________________________________________________________________

khúc thứ Sáu
CHẲNG NỠ TRÁCH DÒNG SÔNG
 
Trịnh - Nguyễn phân tranh
sông Gianh ngót trăm năm chia đôi đất
   chia đôi nước
hai mươi năm
sông Hiền Lương hứng trọn nhát đao
  chặt lãnh thổ thành hai khúc
miền Bắc
  - ngoài Bắc
miền Nam
  - ở trong Nam !…
nếu Thạch Hãn chảy qua vùng đất khác
dân cư đã không dồn tụ về đây
sẽ không có thị xã tỉnh lị này
càng không có Cổ thành Quảng Trị
                                     
đã hàng triệu năm
nước chảy từ núi non gom góp nên dòng
những lạch nước lẻ loi hợp lưu thành suối thành sông
thuở ấy chưa có ma mút khủng long
càng chưa có con người
lẽ nào ta lại oán giận sông Gianh 
trách dòng Bến Hải
kết tội Thạch Hãn cản đường tiến quân vào Thành Cổ
thôi thì sông cứ chảy ngược trôi xuôi
cứ trải dài mở rộng như ngàn đời vẫn thế !

ta xót xa ngậm ngùi tự hỏi
sao Thành Cổ không ở cách Thạch Hãn thêm dăm bảy dặm
sao xuân hè năm Một - Chín - Bảy - Hai không lặp lại điều
              thường vẫn xảy ra
nắng nẻ đá chết cây
gió nóng quạt cạn sông khô suối
nước lũ từ thượng lưu không giận dữ đổ về
Thạch Hãn sẽ không cuồn cuộn chảy
   nước ăm ắp hai bờ
để sông sâu thành nông
khúc nước đầy hoá cạn
Thạch Hãn sông hoá Thạch Hãn cát
chẳng cần lâu lắc gì
chỉ tám mốt ngày thôi !…
sẽ có mấy ngàn người lính
  không chết chìm
  chết ngạt
   chết trôi
những trung đoàn chỉ cần ít phút để vượt qua sông cạn
không bì bõm ngụp lặn cả đêm giữa dòng nước xiết 
anh ta
 cha ta
     không chết ! 

gần bốn chục năm sau
từ mặt sông Thạch Hãn có những cầu đá nhiều bậc dẫn lên bờ 
từng cặp ghế nhựa ghế mây xếp dọc bờ sông kè đá
dìu dặt đèn hoa
Cà phê Mi Thứ
Kem chè Dư Âm
Quán nhạc Sông Xanh…
nhang trầm toả hương ngan ngát
những cặp trai gái nhỏ xuống bờ sông rót vào dòng nước
những giọt cà phê đầu tiên giọt rượu đầu tiên
gọi thầm người đã khuất

nghe nói đã nhiều năm Thạch Hãn chảy hiền hoà 
không dâng lũ cuốn đất lở bờ
không dìm người chết đuối
mọi tội lỗi
sông cao thượng nhận về mình
sám hối ?
                                   
Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
năm Nhâm Tý – Bảy hai                             
máu binh sĩ Sài Gòn
máu quân giải phóng
loang đỏ nước sông Thạch Hãn
ướt sũng gạch vụn Cổ Thành !.
______________________________________________________  

khúc thứ Bảy
CHẾT TRẺ

                  Không được gì nữa
                  không mất gì nữa
                  không cần gì nữa
                  không sợ gì nữa
                  Người Chết nói thật
                  hãy tin lời Người Chết !


LINH HỒN 

I
Những đứa trẻ nhà quê
tóc thả trái đào
áo nâu quần cộc
ra đường cái quan túm vạt áo cha
lớn ngộc còn nhay ti mẹ
mẹ đi cấy sớm mẹ về chợ khuya lại bú tí bà
vú bầu vú mướp đã lâu không còn mùi sữa

chúng tôi ra đời từ những vùng quê heo hút
Na Hang Xích Thổ Bá Thước Con Cuông 
mười mấy tuổi lên tỉnh xem ô tô
ham chơi đáo thích đánh khăng chọi cù
quanh quẩn đồng làng chăn trâu cắt cỏ
sớm học cách làm chồng làm vợ
bắt cá dựng nhà
mùng ba tết được cha dạy bói chân gà
tháng sáu học ông nội xem rễ si búp đa
tính mưa đoán nắng
ngày tết chơi súng diêm pháo đất
lần đầu tập bắn đạn thật giật mình nghe tiếng nổ xé tai
vào lính 
được mặc quần mới áo lành
ngày ăn những ba lần
nằm ngủ trong màn đắp chăn thay chiếu
những chú lính nhà quê ra trận vụng về ngờ nghệch
phía quân địch
lính cũng ngơ ngác y hệt chúng tôi           
trai quê Tháp Mười Bù Đăng Kinh Xáng…
cùng trang lứa
mười bảy mười chín hai mươi
bộ đội nghĩa vụ quân sự
chọi nhau với lính quân dịch cộng hoà
như chia hai phe đá bóng trên cánh đồng mới gặt 
cầu thủ con nhà nghèo
   nghiệp dư chân đất
nhiều đứa lần đầu ra “sân”
    vụng về lóng ngóng
                                                             
những trận đánh dằng dai
mùa Khô sang mùa Mưa
không dễ phân thắng bại
có khi may mắn
   tàn trận lưới hai bên vẫn “sạch”
nhiều khi lưới mỗi phía thủng trăm lần ngàn lần
mỗi bàn thắng - thua
                                  một thằng trai gục ngã
lực lượng càng chênh lệch càng sớm phân định thắng thua
máu quân lính hai bên ít đổ                                                        
đáng sợ là những cuộc chiến dằng dai cân sức cân tài
không bên nào “nhường điểm”               
sứt đầu mẻ tai
cáng nhau dìu nhau vào chấm mười một mét
có một bên thua
      cả năm trái ra ngoài
chỉ cần một lần bóng bật xà lăn qua vạch cầu môn
một bên toàn thắng !…

không ai từ cõi sinh chìm vào cõi tử
dễ như người lính
nhanh như người lính
nhiều như người lính
đương nhiên
mặc nhiên
tất nhiên
hồn nhiên
như lính
từ nòng súng người lính bên kia sang trái tim người lính bên này
đạn bay chỉ mấy phần nghìn giây
quả DKB rời ống phóng
nổ tung căn hầm bên trại giặc chen chúc người
trong nháy mắt
chết nhanh đến nỗi nhiều người không hay không biết
như dây điện đứt
 bóng đèn phụt tắt
như trứng quạ từ nóc tháp chuông rơi xuống sân nhà nguyện
mảnh ngói vỡ từ mái chùa Diên Hựu văng xuống mặt nước ao sen
                                                 
thân thể tử sĩ khoẻ mạnh căng đầy
sạch sẽ thơm tho hồng hào
có người to cao
ngồn ngộn thịt múi da săn
ván thiên bật đinh
   nắp quan tài bật
có người máu chảy cạn
thân thể như quả bóng lỗ chỗ mũi đinh
lép xẹp cá kình khô
lùng nhùng tấm chăn lính màu rêu
   vun mãi không đầy mộ

ngày nào ta chăn trâu bờ đê chơi bịt mắt trốn tìm
anh ẩn vào bụi cây
nấp sau mô đất
tìm không thấy
mắt em đỏ hoe
môi em méo xệch
tiếng gọi ngẹn ngào
tìm thấy anh
em mừng hú
hơn cả tìm thấy trâu bò đi lạc
 
chùm bom khoan rơi trúng dãy nhà hầm
nửa trung đội chết trong lúc ngủ 
tìm các anh từ sáng đến chiều
thâu đêm suốt sáng
kẻ dọc vạch ngang bới từng hòn cuội
sàng đất
  sảy cát
 lay cây rung cành
chặn dòng suối
  tát bùn
        lọc nước
mười mấy mạng người
thịt xương gom chưa đầy mảnh võng
táng một huyệt chưa đầy
  đủ mộ
     nỡ nào chia !

sớm muộn trước sau
những người lính cũng sẽ trở về
trên những toa tàu
xe lăn nạng gỗ
riêng chúng tôi
khuất chìm trong hư vô không ai nhìn rõ
chúng tôi sống bình thường rồi chết
chưa xấu
cũng chưa kịp tốt
không thành ma qủy
chẳng hoá thánh thần
không phải xuống Địa ngục
cóc được lên Thiên đường
tụ tán trên tàn cây ngọn cỏ
ẩn trong giọt sương
tiêu dao trên sóng

trở về nơi mẹ cha sinh hạ nuôi ta thành người
vạt rừng hoang sơ
cánh đồng phóng khoáng
trở về với cánh diều cuối cùng
cánh võng đầu tiên
ngược chiều những đoàn quân vẫn đang hăm hở rùng rùng ra trận
người chết bay ra người sống đi vào
gặp em trai ngủ ngồi trong công sự
bạn chăn bò ôm súng tựa gốc cây
  nhai trệu trạo lương khô
có người sống những thời khắc cuối cùng
   đang lặng lẽ bước vào cõi chết
chỉ người cõi Âm chúng tôi mới biết

mẹ thét lạc giọng
kinth hoàng nhìn ta tóc rối xoã vai
thân hình trong veo xanh lè như lá
cha gặp con trai trong cơn mộng mị
đàn ông ít nói
ta ngồi ôm chân giường
  khóc thầm
   lặng lẽ bay đi…
người trong làng ngoài phố nửa tin nửa nghi
thấy lảng vảng trong sương
nghe lào thào trong gió
thoắt gần thoắt xa
khi khóc lúc cười
gặp con trong mơ
cha mẹ vừa mừng vừa sợ
trâu già nhận ra cậu chủ chăn dắt bao năm
gõ sừng dậm chân
cổ nghẹn cỏ rơm
cặp mắt chén tống rưng rưng nước đục
khôn ngoan nghĩa tình chó Mực 
rên ư ử
gừ gừ trong họng
cụp tai sợ hãi
ve vẩy đuôi mừng
không nhảy lên ngửi tay liếm mặt
cũng chẳng nỡ nhí nhách cắn ma

chúng tôi vô hình vô ảnh
bay ngang bàn thờ, ngồi trên nóc tủ
“véo” xôi gấc mẹ đồ
“bẻ” phẩm oản nếp chiêm chị đóng
“nhón” thịt vịt cha đơm 
ngồi bông bênh trên khói bếp lúc em gái nấu cơm
bay lượn quanh nhà
nấp sau cánh hoa lan hoa huệ
đốm lửa đầu nén nhang cháy bùng
di ảnh trên bàn thờ mắt long lanh ướt

chúng tôi trở về
lượn lờ ở cổng đình
rụt rè quanh đền miếu
ma làng
             nguời cùng xóm chết già
              tổ tiên nội ngoại
chỉ loáng thoáng mấy người chết trẻ
đón tiếp ma mới chúng tôi mười chín hai mươi
chia rượu ngô vài hơi
thuốc lào dăm điếu

nghe nói sau khi chết người ta thành gió
không hướng không chiều
nghe nói chết rồi người ta thành cỏ
cỏ mọc lan man cỏ bám vật vờ
nghe nói chết đi con người thành bụi
bụi bay lang thang bụi cuốn bơ vơ…
vừa mới hóa thân từ kiếp người
   bụi lơ lửng trên cao
sắp được đầu thai làm người
     những hạt bụi bay là ngọn cỏ
ơi những hạt bụi tiền nhân tiền kiếp
những hạt bụi luân hồi sắp được đầu thai

đang là bố là mẹ
là vợ là chồng
lại hoá gió lang thang
cỏ xanh bụi hồng
không còn yêu thương không còn giận dữ
tiếc nuối người đi
đau lòng người ở
nhưng nếu còn được làm bụi làm cỏ
cái chết với ta cũng nhẹ đôi phần
ừ thì chết
  nhưng không hủy diệt 
dẫu là mất
   cũng không mất hết !

thực hư nào hay
đi trên cỏ chợt thấy run chân
hạt Bụi - Ai cay xót mắt mình
người thợ chẳng vô tình
đời trước dạy đời sau
để lại khe hở cho gió lọt trên mái nhà
vào ra quanh khung cửa…
nuối tiếc
xót đau
linh hồn thét gào thành giông thành gió

XƯƠNG CỐT

Mỗi năm chúng tôi chỉ được về quê quán một lần
trong Lễ Xá tội vong nhân Rằm tháng Bẩy
trước gà gáy canh ba
linh hồn phải rời nhà mẹ cha
trở lại với cây với đá
nơi ấy
  mồ hoang
  mới thực nhà mình 
xương cốt ở đâu linh hồn về đó
mộ phần thất lạc linh hồn lang thang…
xương cốt chúng tôi
khỉ đầu đàn bọc lá chuối rừng thờ ở góc hang
lẫn vào cát chìm trong suối
hóa ụ kiến vàng, gò mối
huyệt khoét bằng lưỡi xẻng cá nhân nhỏ tựa bàn tay
võng dù làm vải liệm
mảnh nilông buộc túm thay quan tài
mấy chục năm trời
rễ cây rừng hoang tham lam hút kiệt
trăm người chết tìm thấy vài huyệt mộ
lẫn giữa đất đỏ của rừng có chút đất xám mùn đen
lẽ nào đó lại là tất cả những gì còn lại
của anh ta
 em ta
  bạn ta
    đồng môn
        đồng tuế !

trận địa năm xưa lại lút giữa đại ngàn
rễ cỏ tranh xuyên vào hốc mắt
đá đè vỡ xương đầu dập nát xương chân
cây che phủ nắng không lọt tới
đồng đội chôn vội chúng tôi giữa hai trận đánh
không vải liệm không hòm ván
quân giặc vây chặt cánh rừng
đạn xuyên trước mặt pháo cày sau lưng
những Nghĩa - Địa - Hoang chìm lấp dưới rừng
đồng đội ngày ấy về đâu ở đâu
nhiều người đã già lắm người đã chết
rừng cây đổi dạng núi đá thay hình
mồ hoang đã lâu không còn dấu vết…

những người khiêng cáng thương binh
trúng đạn chết dần trên đường về hậu cứ
người sốt ác tính sống lâu hơn người khoẻ !
nằm mươi ngày nửa tháng trên võng vải đòn tre
cái chết đến không vội vàng
hiền lành
 dịu nhẹ
     khẽ khàng
chết nhiều khi không hiểu tại sao
chảy hết máu hay vì đói khát
chết mà không biết chết lúc nào

cây rừng lớn thêm dâng võng lên cao                
thịt rữa nát
   võng dù còn bền chắc
võng rung cùng cây võng chao theo gió
xương đen
    nắng nỏ
cốt trắng
    gội mưa...
___________________________________________________________________________________________

khúc thứ Tám
CUỘC CHIẾN KHÔNG ĐỔ MÁU

NHỮNG TRẬN ĐÁNH TRONG IM LẶNG

Ngót bốn mươi năm trước khi chúng tôi còn sống
khu vực này chứa được mấy ngàn quân lính của cả hai bên
nay đông đúc gấp trăm lần 
những bộ xương khúc xương than xương
chẳng cần nhiều không gian như khi con người còn sống
không tốn phân vuông nào cho chúng tôi trên mặt đất
               
không còn sống nhưng không chết nữa
  linh hồn bất tử
không đòi phong thánh thần
không cần dựng tượng đài lăng tẩm
mọi danh tụng danh xưng chỉ người sống mới cần
những vong linh hồn ma ở Cổ thành Quảng Trị
đùa nghịch suốt ngày bay nhảy thâu đêm
đã gần bốn mươi năm
bốn mươi năm…
  bốn trăm
     bốn ngàn năm nữa…

ngày ấy chúng tôi vẫn còn đang lớn
quen ăn cơm mẹ thổi
mặc áo chị khâu
mười bảy tuổi vào lính
mười tám tuổi xa nhà
nhiều người chưa bắn viên đạn nào về phía đối phương 
đã chết
chưa biết lo toan
chưa quen xốc vác
vong linh lính trẻ
- vong linh “ thất nghiệp ” !
uống sương ăn nắng
hít thở hương hoa
đậu trên ngọn cây
nhập vào ong bướm
nếu được cúng giỗ
chúng tôi no đủ quanh năm
không có ai hương khói
ăn cháo lá đa dật bánh cô hồn
ở cõi lạnh tối này
những người lính chúng tôi đối sử với nhau tử tế
không bận tâm khi còn sống mỗi người
       hướng mũi súng về đâu
người chết nghĩ khác người còn sống !

hương khói của chung vàng mã của chung
quân phục mặc chung súng đạn chơi chung
lúc vác B.40 khi ôm M.79
thằng thích AR.15 đứa mê AK.47
dép cao su đúc giầy đinh da lộn 
mũ cối mũ nồi xanh…
tiểu thuyết Thép đã tôi…cháy sém
rách nát Thánh kinh
lính Đại học Xây dựng chia động từ tiếng Nga
              trên giấy phong lương khô Bẩy lẻ hai
lính rớt tú tài 
nguệch ngoạc viết từ vựng Anh ngữ khắp
        vỏ bao thuốc lá Quân tiếp vụ
 
đã thành hồn thành vong vô ảnh vô hình
Kinh Nhật tụng, quyết tâm thư cũng vô hình vô ảnh
với chúng tôi
Thành Quảng Trị mãi mãi là chiếc cối khổng lồ xay thịt
Cổ Thành muôn đời sau vẫn chiến địa chiến trường
 
“chỉ có mấy chục ngàn người tử trận ở sông Thạch Hãn
              ở Cổ Thành
dăm ba trăm người bị đất đá lấp vùi đâu đó”
hay gấp mấy chục mấy trăm lần ?
bao giọng lính ba miền còn âm vang 
   trong mạch đất gạch vụn rễ cây      
chẳng lẽ chỉ những người đã chết mới thấy mới hay
không thể biết
hay không muốn biết ?

người sống không tin nhau
dễ gì tin người đã chết

BA NGƯỜI ĐÀN BÀ
 
I
Cô Mận ra đời ở vùng chè Bồng Lạng
từ nhỏ đã nghe tiếng mìn phá đá rung chuyển phố núi Kiện Khê
cắm trại thiếu nhi quanh chùa Bà Đanh
thoả thích nô đùa trong rừng vải chín
theo mẹ ngược Chi Nê bán chè khô chè tươi
đến Ba Sao mua măng ngâm sắn lát
dập dềnh cầu phao ngã ba sông Châu sông Đáy
tháng mấy lần qua sông sang Phủ Lý
     họp chợ Chấn chợ Bầu
cậu học trò thị xã hồi ấy chớm mười bốn tuổi
lần đầu tiên trong đời được một cô gái xưng em
nửa thế kỉ qua đi
mỗi khi nhớ lại vẫn choáng váng ngất ngây
  như lần uống ngụm rượu đầu tiên

Mận đi mở đường
Mận đến Trường Sơn                                 
để lại rừng xanh cả thời xuân sắc
bệnh tật
  vàng da
   đục mắt
da đầu trốc lở trùm khăn bốn mùa
đầu không sợi tóc
                   cứ vậy vào chùa
chồng con chẳng bận
không xuất gia nào khác đi tu !

vong linh Sãi Mận dạt vào Quảng Trị
không được làm mẹ trên đời
Trời cho làm mẹ bao người cõi Âm
không làm mẹ hài nhi
Mận làm Mẹ linh hồn binh sĩ
lính chết trẻ ngàn năm vẫn trẻ
dưới đất lạnh càng cần có mẹ

II
Má Chín Mỹ Tho
mười ba tuổi theo gánh cải lương
trôi dạt khắp châu thổ sông Hậu sông Tiền
thằng Hai con má da trắng mắt đen
tính nết giống thầy đờn mặt đẹp như kép nhất
trốn lính
con má ngày đêm chui nhủi dưới ghe
ngủ trong khoang gạo lức đậu mè
kéo đờn cò sau bồn nước mắm
trốn thoát dăm năm, Hai vẫn phải vô quân dịch
hạ trại ở cổng Tây Thành Cổ ngày năm
đêm mồng sáu quan lính đang ngủ vùi
    “vùi” luôn vì pháo kích
“đại đội giặc bị têu diệt hoàn toàn
     hơn trăm tên tan xác !..”
 
không ham về miền Cực Lạc
càng không muốn đầu thai để trở lại người
má Chín xin Đức Quan Âm cho về Thành Cổ
xương thịt linh hồn con má chắc còn quẩn quanh đâu đó…
           
III                                 
Thằng Bil chưa từng thấy mặt cha
thần đồng toán học của bang Atlanta
không bóng gậy bóng chầy
không Uytski bạn gái
vừa nhai hămbugơ vừa giải toán
giấy nháp quăng trắng sàn nhà
           tìm nghiệm số thâu đêm
Bil bị coi là chú lính kém cỏi nhất sư đoàn
chục lần bắn bia chục lần đuổi quạ
chiếc trực thăng đặc chủng chất đầy máy móc tối tân
    vừa rời phòng thí nghiệm 
Bil say mê ngắm nhìn Thành Cổ qua mắt kính “đít chai”
không hiểu sức hủy diệt gì mạnh đến mức
    làm máy bay cháy bùng nổ như sấm sét
hàng triệu mảnh kim loại thịt xương rải mặt sông Thạch Hãn
 
bà Jên khóc con lạc giọng rạc người
chết trong đêm Giáng sinh năm Bảy hai kinh hoàng ấy
linh hồn bà bay là sát đầu sóng biển
khômg để “rada” của thần thánh trên trời dưới trần phát hiện
che mắt thổ thần thổ địa trấn giữ những vùng biên ải biên cương
linh hồn bà Jên được Chúa cho “định cư” ở Cổ thành Quảng Trị

ba người đàn bà nương tựa chở che nhau
vật vã ở ngọn cây khóc cười trong sương khói
quanh năm nhìn bọn trẻ “đánh nhau”
không thắt ruột lo âu khi con lâm trận

người sống làm chiến tranh
chĩa súng vào ngực nhau
không giết đối phương sẽ bị đối phương tiêu diệt            
chết vì bom đạn
những người lính lại tiếp tục “chiến tranh”
trên vạt mây
nóc nhà
dưới đáy sông
lòng đất
cuộc chiến tranh vui vẻ trong sáng tốt lành
không đổ máu không rơi nước mắt
cây không chết đứng cỏ không dập nát
lương tâm sáng trong
danh dự vẹn nguyên…

những người lính chơi trò chiến tranh
không thể chết
không còn gì để mất
không có ai là ta không bên nào là địch
mấy trăm ngàn hồn lính
chỉ có vài đứa mắt xanh mũi lõ quê Látvêgát Bốtstơn
lọt thỏm giữa những người lính
\    nói giọng Cao Lãnh Quảng Nam Bắc Cạn…
lúc còn sống lắm người hiền kẻ ác
bây giờ họ ngây thơ như bê như nghé
coi nhau là bè bạn
anh em…
___________________________________________________________________________________________

khúc thứ Chín
NGŨ CUNG

Cung Xàng
BẢN ĐỒ QUÂN SỰ

Đo đạc từ trên tàu vũ trụ
quan sát bằng máy bay
người ta lập bản đồ quân sự
trên mây
hành tinh lọt thỏm trong tờ giấy
cả quốc gia trải gọn trên bàn
một nửa đất nước nằm trong “bảng tính sẵn” của sĩ quan pháo binh
trong xà cột trợ lý tham mưu
chỉ huy tác chiến
  
nét bút ở bản đồ lớn hơn những chiến hào trên thực địa
dấu thập ác đánh dấu - cắm sẵn  - trên những bãi ém quân
nơi có hàng chục ngàn trăm ngàn binh sĩ
dòng suối ấy từ lâu cháy khô hoá đá
trên bản đồ quân sự vẫn nét mực tươi xanh
quả đồi kia bom san thành bình địa
những con số chỉ diện tích độ cao vẫn cứ yên lành
bản đồ quân sự
vẽ chi li đến từng giếng nước
những đạo quân nhọn hoắt mũi tên

bom rải thảm theo tọa độ trên bản đồ quân sự         
quân lính tiến đánh bất ngờ theo bản đồ quânsự
tướng tá dí ngón tay dáng nắm đấm
chọc đầu gậy xoáy mũi dao găm
      rách bản đồ quân sự
những mệnh lệnh quyết định sự sống chết của cả ngàn người
trên giấy lệch một ly
ngoài chiến trường phải lấp kín bằng bao mạng lính
trước khi quân sĩ hai bên đổ máu
tướng lĩnh đổ mực trên bản đồ
nhỏ mồ hôi trên bản đồ
giết nhau trên giấy. 

Cung Xê 
NHĨA ĐỊA KHÔNG MỒ

I    
Mua mớ cá lẹp
bán mủng khoai lang
mẹ ta chị ta bần thần đắn đo
mặc cả
  trả giá
   thêm bớt
      từng xu
không chịu mua đắt
chẳng nỡ bán cao…
        
II
Người nước ngoài gọi thị xã Quảng Trị là
  Bãi tha ma không có mộ bia
    là Nghĩa địa ngầm
nhà sư thắp hương
lẩm nhẩm khấn những người nằm dưới
     Nấm mồ Chung khổng lồ vô định
có bao điều còn chìm nghỉm trong thẳm sâu bí mật

sự thật
dù không được thừa nhận
vẫn cứ là sự thật
đất ở Cổ Thành nặng nhất hành tinh
mặn nhất hành tinh
màu mỡ nhất hành tinh
óng mượt cỏ xanh
     xanh đến đáng ngờ                
cây gì mọc nơi đây cũng lớn nhanh vùn vụt
mẫu đơn đỏ rực
  đỏ quặn gan thắt ruột
tôm nuôi
              sạch ao
mía trồng
               dịu đất
hiếm người xin
chẳng mấy ai ăn
những sinh viên đại học mười tám hai mươi
tay chân đang dài thịt xươg còn lớn
khi chết
thân không vẩy rượu
xác không lèn lá thuốc chè khô
không sô trắng trùm đầu không vải dày khâm liệm
huyệt mộ rải khắp rừng
chôn “chay”  không hòm ván
ngót bốn mươi năm
  mưa dầm nắng hạn 
    còn gì nữa đâu !

cuốc bổ xẻng xúc mai đào
tìm được xương người này
xương người kia nát vụn
chỉ có những mái tóc non tơ đen nhánh
không thể mục nát
không bao giờ bạc
vướng rễ cây
 quấn lưỡi xẻng
   đau nhức mắt nhìn
linh hồn quẩn quanh không thể bỏ đi
xương cốt chưa gặp Người Tìm hồn phách còn thất lạc
không đầu thai
không thể luân hồi
       
nhà cửa sẽ mọc lên thành phố thành làng
tiệm rượu
vũ trường
sân gôn
phòng cưới
sẽ chẳng ai biết có di cốt di hài lấp vùi phía dưới
liệt sĩ tử sĩ
trai phố măng tơ trai làng mới lớn
chưa kịp yêu 
chưa thất tình phiền muộn
linh hồn thiên sứ thể xác thiên thần…

không thể biết
làm sao tránh được
phòng ngủ xây phía trên
giường cưới đặt ở trên !...

Cung Cống 
RĂU RĂM

Đàn ông đàn bà
    đủ vợ đủ chồng
     đang thì vừa độ
rau răm thơm bùi đến mấy cũng đành kiêng cữ
búp ổi lá gừng trộn dồi lợn tiết canh
không nêm rau răm
canh hến nhạt mùi cháo lươn đoảng vị
thím tôi góa bụa dì tôi vắng chồng
lại coi rau răm là bạn bầu tri kỉ
xiêu vẹo chùa làng
cối đá lỗ nén ngập vại cà
chum tương úp rổ tựa gốc cau hong nắng
vạt rau răm xanh um thẻo đất khuất sau nhà…

ngày chồng còn sống từ mặt trận trở về
nhiều người vợ lăn trên luống rau
khóc nức nở lại cười khành khạch
đào bật gốc loài rau tình nghĩa
 - hãy lặn xuống vực hãy bay lên trời
đừng ở lại chịu cay đắng nữa !
bao người đàn bà có chồng chết trận
không thể đoạn tuyệt với thứ rau này
ăn ghém rau răm đến lúc mãn kinh
lòng lạnh giá không ham muốn nữa 
 
 
sau chiến tranh
cơm dần no áo dần lành
những người vợ góa đang thì càng khát thèm ân ái
thân thể quanh năm chay tịnh
săm săm vào chùa xụp lạy Quan Âm
nửa đêm xõa tóc ra miếu Thổ Thần 
không như người có chồng nặng hơi hướng đàn ông
nấu nước lá thơm tắm gội kĩ càng
trước khi vào miếu cúng thần lên chùa lễ Phật  
     
sau chiến tranh đàn ông càng khan càng đắt
đàn ông được quyền chọn lựa
đàn ông
           phần thưởng của thiếu nữ
                                 giải thưởng của đàn bà
nhiều người phụ nữ chùng chình đi sớm về khuya
tha thẩn đường thưa bãi vắng
ra đồng tát nước nhổ cỏ giữa đêm
khép cửa hờ khi ngủ…
những người đàn bà không như Thị Nở
vẫn ao ước gặp Chí Phèo
50% đàn bà goá chồng      
nhiều hơn thế
            phụ nữ không được làm cô dâu
ít hơn thế
             những người bạc tóc vẫn còn là Trinh Nữ !...
(Ghi chú: 5 dòng này theo như bản gốc, chưa biên tập.
Dùng kí hiệu toán học 50% để tăng sự lạnh lùng khốc liệt)
 
đắng lưỡi xót lòng
che mưa dập lửa
mắt lá răm đa tình 
mấy thời đẫm lệ
một đời chưa khô…

Cung Líu
KHÚC NGÂM CỦA NGƯỜI MẸ CÓ CON TỬ TRẬN

Con thơ dại đá dầy chân mỏng
sài đẹn đêm sốt nóng ban ngày
chàm mặt mũi ghẻ chân tay
thương con mưa lạnh nắng say gầy gò

sáu bảy tuổi chăn bò lùa vịt
vài năm sau xúc tép giăng câu
mười lăm tuổi đã theo trâu
dầm chân ruộng cạn đồng sâu cày bừa…

đất cằn cỗi mới mưa đã ngập
nắng nẻ đồng
lúa thấp cỏ cao
được mùa
ngan ngỗng phổng phao
mất mùa
đói kém vêu vao cả làng  
                                                            
chân con dẫm mảnh gang lọ vỡ
tay xóc vào thớ gỗ dằm tre
đứt tay
            róc mía gọt me
lạc kim vụng kéo
                    đỏ nhoè máu loang

bà quýnh quáng thắp nhang khấn vái
mẹ dứt bông
                 cắn vải
                            xé khăn
xuýt xoa chị buộc em chằng
chân tay
đâu phải tre măng ngoài đường

suốt mấy bữa ông thương bà xót
đau tay con mà buốt lòng cha
gai đâm dao cứa thịt da
máu là máu
máu không là nước ao

nào chỉ có gai cào dao gọt 
đâu phải là mấy giọt máu rơi
con tôi
con của bao người
bom xé ngực
đạn tiện rời chân tay

máu đọng vũng đầm cây đẫm cỏ
máu tuôn trào sũng đỏ bông băng
chưa thành tre mới qua măng
lưỡi hái Thần Chết xén phăng một đời…

vết thương ấy nhiều người qua khỏi
- ba bốn mươi
               cứng cỏi đàn ông
- đã từng dày dạn tây đông
- đã từng vượt núi băng sông
              trải đời…

con ta
con bao người mẹ khác
mới ra ràng 
           ngác ngác
                     ngây ngây
đớn đau xám ngoét mặt mày
làm sao chịu nỗi đau này
con đi…

đất màu mỡ xanh rì cây trái
lim sến hay cỏ dại
khác chi
lá non gió dữ cuốn đi
lá già run rẩy
               còn gì rừng xanh !…

Cung Hồ
TẠ ƠN

Đói quay quắt
cả đơn vị không ai ngủ được
nửa đêm anh bị trung đội trưởng bợp tai
bắt ra nương nhổ trộm khoai
loạt bom tấn trùm lên trận địa
hai mươi tư người không toàn thi thể
đốt cành khô thay nhang
anh luộc khoai mì làm đồ cúng lễ
giá mà mọi người trong đơn vị
đều cùng anh ra nương !

người trước ngã
người sau ngã
đồng đội bên phải gục xuống
bên trái gục xuống
cả tiểu đội trúng đạn thân vắt thành cầu
chỉ anh tôi may mắn vượt qua lưới lửa
xe tăng địch trúng đạn lao xuống khe sâu

thằng lính Mỹ ngờ nghệch trẻ măng
đường ngắm lệch nửa li
viên đạn khoan thủng vành tai anh tôi
                             trẻ măng ngờ nghệch…
hơn ba chục năm
sách anh viết cao ngang nòng súng
chục ngàn trang tiểu thuyết
thơ ngót vạn câu…

tạ ơn đồng đội che bom chắn đạn !
tạ ơn người trung đội trưởng nóng tính
nửa đêm bắt anh ra nương nhổ trộm khoai mì !
ơi cái thằng lính Mỹ  “gà công nghiệp ” 
bắn anh tao thủng vành tai !
cầu mong suốt đời mày đừng giết ai
cũng đừng bị giết !
    (HẾT)
_________________________________
Nhà Sáng tác Đại Lải, tháng 11- 2007,              
Nhà Sáng tác Vũng Tàu, tháng 11- 2008,
Sài Gòn, ngày 10 tháng 12 – 2008.