Từ Trung Hà về làng tôi làng Phú Cường phải qua làng Cổ Đô. Tôi còn nhớ Làng Cổ Đô hồi đó có khu rừng Cấm Cổ Đô có những cây sồi ba đứa trẻ ôm mới xuể, dây to buông thả chằng chịt…tui trẻ chúng tôi hồi đó thường lên cắm trại ở đây, và sau này tôi thường phải qua đây mỗi khi đi từ Hà Nội hoặc thi xã Sơn Tây về.
Làng Cổ Đô là một làng quê nhỏ bé nằm nép mình bên dòng sông Đà cuộn sóng. Xuôi một chút là Ngã Ba Bạch Hạc nơi hội tụ của ba dòng sông Hồng - Lô -Đà
Cổ Đô , trước đó có tên là An Đô, sau đổi là An Bang, thuộc huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội).
Cổ Đô có nghề dệt lụa. Tương truyền, công chúa Thiếu Hoa, con gái vua Hùng từ thành Phong Châu sang đây dạy dân nghề tơ lụa. Lụa làng Cổ Đô là sản vật tiến vua. Lụa Cổ Đô đã đi vào ca dao, nức tiếng cả nước:
Lụa này thật lụa Cổ Đô /Chính tông lụa cống các cô ưa dùng.
Làng Cổ Đô còn nổi tiếng là đất văn học. Người làng Cổ Đô đã tự hào về truyền thống hiếu học, truyền thống khoa bảng của Cổ Đô. Hồi tôi còn là học sinh trường Phùng Hư ng ( Thị xã Sơn Tây) được học cùng một số bạn người Cổ Đô. Họ là những học sinh chăm chỉ và thường học giỏi. Những giờ học văn miệng họ có những chuyện kể rất hay. Cả lớp phải ôm bụng cười. Làng Cổ Đô đã có những câu ca đi vào lòng người trong vùng :
Đồn rằng Hà Nội vui thay/Vui thì vui vậy chưa tày Cổ Đô/Cổ Đô trên miếu dưới chùa/Tròng làng lắm kẻ nhà Nho có tài./Sinh ra hoa cống hoa khôi/Trong hai khoa ấy thì tài cả hai.
Làng có Tiến sĩ Nguyễn Sư Mạnh. Vì nhà nghèo, cha mất sớm, nên 27 tuổi Nguyễn Sư Mạnh mới lều chõng đi thi. Ông đã đỗ Đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484). Nguyễn Sư Mạnh vì có công với vua với nước mà được ban quốc tính (họ Lê) làm quan tới Thượng thư bộ Lễ, tước Sùng Tín hầu.
Khi ông làm Thượng thư bộ Lễ, ông được cử đi sứ nhà Minh. Lúc vào yết kiến, vua Minh thấy sứ thần nước Nam mặc áo không cài khuy, cho là xấc xược, bèn hạch tội khi quân (khinh nhờn vua). Sư Mạnh quỳ xuống tâu rằng:
- Tâu bệ hạ, sứ thần nước Nam đi lâu ngày, sợ khú mất chữ Thánh hiền, cho nên phải cởi áo ra hong, xin được đại xá!
Vua thấy ông đối đáp mau lẹ, muốn hại người tài , bèn dựa vào câu trả lời đó mà xuống chiếu rằng: “Nay Thiên triều đã lạc mất thiên Vi Chính trong sách Luận Ngữ, nhờ người thuộc thiên kinh vạn quyển chép lại giúp”. Vua Minh hẹn ba tháng phải hoàn tất. Hai tháng đầu, Sư Mạnh chỉ du ngoạn đó đây, dạo xem phong cảnh Yên Kinh. Đến gần hết hạn, ông mới ngồi vào án, chép liền mấy đêm, xong thiên Vi Chính, dâng lên. Vua Minh liền lấy sách trong thư viện ra so thì chỉ có thừa một dấu chấm ở chữ “cộng”. Nhưng đến khi tìm đến bản gốc thì thấy chữ “cộng” cũng có dấu chấm ấy. Phục tài quá, vua Minh bỏ ý hại mà phong cho chứcThượng thư lại ban cho áo mũ, thẻ bài như một ông Thượng thư của Trung Quốc. Ông được gọi “Lưỡng quốc Thượng thư” từ đấy .
Ông là Thượng thư thứ nhất . Làng Cổ Đô có hai ông Thượng thư, ông Thượng thư thứ hai là: Lục bộ Thượng thư Nguyễn Bá Lân.
Nguyễn Bá Lân là tác giả của bài Ngã Ba Hạc Phú nổi tiếng. Ông vốn quê gốc ở phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc. Gia phả dòng họ Nguyễn Bá Lân, chép rằng: Tổ tiên ông gặp buổi binh đao loạn lạc, đến lánh binh ở Cổ Đô, sống bằng nghề dạy học, vì mến cảnh mến người mà nhập tịch ở đây”.
Nguyễn Bá Lân sinh năm Canh Thìn (1700). Cha ông là Nguyễn Công Hoàn, khi ấy đã ba mươi tuổi, mới sinh ông là con đầu lòng.
Trong phần Tự thuật về mình, Nguyễn Bá Lân viết rằng cha ông chỉ dạy ông bằng “một cuốn Xuân Thu ( trong Ngũ kinh) và hơn 20 thiên sách Lễ ký không dày quá 100 trang giấy Thanh Hoa”. Câu chuyện Nguyễn Công Hoàn dạy học cho con bắt đầu từ đấy.Từ nhỏ, Nguyễn Bá Lân vốn đã ham đọc sách. Được cha trực tiếp dạy dỗ, sự học Nguyễn Bá Lân lại càng tiến tới .Nguyễn Công Hoàn là người phong cách tài tử, khoáng đạt; về văn chương chữ nghĩa thì chẳng chịu nhường ai, nên giữa hai cha con thường có chuyện thi thố. Chuyện thi thố văn chương giữa hai cha con bao giờ cũng bắt đầu từ phía ông Hoàn . Một hôm, cha con ông cùng qua đò, ông Hoàn nhìn thấy đàn dê đang ăn cỏ bên dệ sông, liền ra bài phú với đầu đề: “Dịch đình dương xa phú” (Bài phú xe dê cung cấm). Ông Hoàn bảo con rằng: “Nếu sang bờ bên kia, ta làm xong trước mà anh chưa xong thì ta ném anh xuống sông, anh làm song trước thì anh ném ta xuống sông”. Khi thuyền cập đến, bài phú của Nguyễn Bá Lân đã xong, Nguyễn Công Hoàn mới làm được một nửa. Ông Hoàn bắt ông Lân phải ném mình xuống sông, ông Lân không dám nghe lời, ông Hoàn liền quát mắng ông Lân. Bài phú ấy đã được người đời tán thưởng và truyền tụng. Người ta gọi bài đó là: “Nhất độ giang thành chương phú” (Bài phú hoàn thành trên một chuyến đò ngang).
18 tuổi, Nguyễn Bá Lân dự kỳ thi Hương và đỗ đầu kỳ đó, gọi là đỗ Giải nguyên. Hai năm sau, ông lại đỗ kỳ thi Hội và đến khoa thi Đình năm Tân Hợi, niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 3 (1731) Nguyễn Bá Lân đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Nguyễn Bá Lân đã từng làm Thượng thư ở 6 bộ của triều Lê, được phong tước Lễ Trạch hầu, hàm Thiếu bảo, bậc Ngũ hầu Lão Chúa. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí đã hết lời ca ngợi phẩm cách trong sạch, cốt cách thanh cao và liêm khiết của ông trong cuộc đời làm quan từ khi ông 32 tuổi đến lúc mất (86 tuổi).
Người thời bấy giờ gọi ông là một trong “An Nam tứ đại tài” (Bốn người giỏi nhất nước Nam). Đó là bốn ông: Nguyễn Trác Luân, Nguyễn Tông Khuê, Ngô Tuấn Cảnh và Nguyễn Bá Lân. Nguyễn Bá Lân là tác giả của bài “Ngã Ba Hạc phú” *– “một bài phú Nôm” có địa vị và ảnh hưởng tích cực nhất định đối với sự phát triển của “biền văn Nôm”.Ngoài bài phú , ông còn có hàng chục bài phú chữ Hán
Các tuyển tập phú cổ như: Danh phú hợp tuyển, Danh phú tập, Bát Vận phú, Hoàng Lê bát vận phú đều có tuyển nhiều bài của ông. Đó là: Trương Hàn tư thuần lô phú, Cung Nhân trúc diệp phú, Giai cảnh hứng tình phú... tất cả đều là những bài phú chữ Hán mẫu mực.
Làng Cổ Đô hôm nay, tuy chưa có những tài thơ sánh với Nguyễn Bá Lân, nhưng làng quê ấy vẫn có người làm thơ, có thơ xuất bản hay in trên sách báo trung ương. Đó là các nhà thơ và người làm thơ Trần Cẩn, Linh Kha, Khánh Hữu, Nguyễn Bách, Quốc Trụ…Cổ Đô có “Câu lạc bộ những người cao tuổi” sinh hoạt khá đều đặn, một hình thức sinh họat đầy chất văn hóa, thể hiện một nét đẹp tinh thần của một lớp người ở đây. Một bài thơ, một vế đối của một người xướng ra được hàng chục bài thơ vế đối họa lại như là lời đáp “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” của những tâm hồn bè bạn.
Làng Cổ Đô là làng lụa, làng thơ, làng họa sĩ, ba tiếng ấy nói lên đầy đủ một nét đặc trưng của làng Cổ Đô. Cái làng nhỏ bé ấy có tới gần hai chục họa sĩ và người làm hội họa được đào tạo chính quy tại hai trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội và trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội, hoặc chí ít thì cũng được đào tạo tại Trường Cao đẳng sư phạm Nhạc -Họa trung ương..
Nói đến giới họa sĩ Cổ Đô, là nhắc tới họa sĩ lão thành Sĩ Tốt với những bức tranh nổi tiếng: Tiếng đàn bầu, Bế con... đang được lưu giữ tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật quốc gia. Nhiều bức tranh của họa sĩ hiện đang được lưu giữ tại các Viện Bảo tàng lớn ở Mỹ, Pháp, Đức, Thụy Điển, Ba Lan... Với gần 1000 bức tranh (trong đó có 100 bức vẽ hoa) được vẽ trong suốt cuộc đời nghệ sĩ của mình, tên tuổi và vị trí Sĩ Tốt mãi mãi được ghi nhận trong lịch sử Mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Điều rất đáng nói về ông là, từ ông và do ông dìu dắt mà lớp lớp họa sĩ trẻ của làng ra đời, trưởng thành và được khẳng định trong giới. Đó là các họa sĩ Sĩ Tuấn, Sĩ Thiết, Ngô Bình Thiểm, Sao Mai, Giang Khích, Nguyễn Thạch, Trần Hòa và nhiều người khác nữa. Trong cuộc đời họa sĩ của mình nhất là kể từ khi về hưu tại quê nhà, họa sĩ Sĩ Tốt thường xuyên tổ chức các lớp dạy vẽ tại nhà với ý thức trách nhiệm và lòng yêu thương sâu sắc nhất.
Người Cổ Đô có truyền thống hiếu học. Đất Cổ Đô là đất học. Giờ đây làng có tới 300 Cử nhân, Phó Tiến sĩ … càng làm người Cổ Đô tự hào . Trọng học, người dân Cổ Đô, dù vẫn còn nhiều khó khăn vẫn cố gắng góp công, góp của xây dựng trường sở, động viên con em mình học hành để chờ đón những vận hội mới của quê hương đất nước vì một nước Việt Nam phồn vinh. ...
*Ngã ba Hạc phú
(Lấy vần Hạc)
Vui thay! Ngã ba Hạc; Vui thay! Ngã ba Hạc. Dưới họp một dòng; Trên chia ba ngác.
Ngóc ngách khôn đo rộng hẹp, dòng biếc lẫn dòng đào; Lênh lang dễ biết sâu nông, nước đen pha nước bạc.
Nhớ xưa: Vũ trụ mơ màng; Càn khôn xếch xác.
Vua Bàn Cổ khai lò tạo hoá, hồng mông đà phơi phới hơi xuân; Họ Hữu Ngu khơi mạch sơn hà, cương giới vẫn rành rành dấu tạc.
Vậy có: Nắm đất Đoài phương; Cạnh giời Nam quốc. Ba góc bờ chia vành vạnh, huyệt kim quy hẻm đá rộng hông hênh; Hai bên cỏ mọc lâm dâm, hang anh vũ giữa dòng sâu huếch hoác.
Mọi thú mọi vui; Một chiều một khác. Lơ thơ đầu ông Lã thả cần; Trần trụi mặc Chử Đồng ngâm nước. Bè khách thương bạ bến, cắm neo quỳ gối lắc cày xuôi; Thuyền ngư phủ thuận dòng, giương nách khom lưng chèo tếch ngược.
Dùi điểm thùng thùng trống gọi, cửa tuần ty rộn rã khách chen vai;
Chày đâm văng vẳng chuông đưa, nền Phật tự lao xao người rén bước.
Khác gì: Những chốn Tiêu Tương; Đồ Tranh thuỷ mặc.
Trên lọ phải vén quần vua Tống, ra sức anh uy;
Dưới cũng vỗ bụng giời Nghiêu, dắng ca canh tạc.
Ta nay: Qua miền Tam Đái, dứt dải sông lô; Thấy ngã ba Hạc vui thay, làm chơi một đạc. Ai hữu tình ngắm lại mà coi; Kể làm cực nhân sinh chi khoái lạc.
* Ngã ba Hạc là chỗ hợp lưu của ba sông là sông Đà (hoặc sông Bờ), sông Lô (hoặc sông Tuyên) và sông Nhị Hà, ở Bạch Hạc (nay thuộcPhú Thọ).