Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

CON CHIM JOONG… SÁNG SUỐT

Bùi Công Thuấn
Thứ hai ngày 9 tháng 10 năm 2017 3:28 PM



(Đọc tiểu thuyết Con chim Joong bay từ A tới Z của Đỗ Tiến Thụy, Nxb Trẻ 2017)


LỜI CỦA MÕ
“Chiềng làng chiền chạ/ thượng hạ tây đông/ có con chim Joong/ từ a tới z/ vừa bay vừa hét/ choét choét chóet/ kẹc kẹc kẹc/ ông Thụy…sáng suốt”
Haiza! Gì đây?
Ấy là tôi mượn mõ rao giúp những lời này, vì sợ bị đấm vỡ mõm. Số là hôm 03.10.2017 trên Fb của nhà văn Uông Triều có bài viết ĐẤM VỠ MÕM BỌN PHÊ BÌNH. Đọc xong sợ quá, tôi xin công khai với cả làng rằng, tôi không viết phê bình. Tôi chỉ ghi lại những điều thú vị đọng lại trong lòng mình khi đọc cuốn sách này, một cách rất chủ quan, rất riêng, có thể là “không giống ai”.
Lòng tự dặn lòng rằng…đọc cảm tính là cách đọc hời hợt nhất…
CON CHIM JOONG LÀ CON CHIM GÌ?

Ai đó đã hỏi nhà văn Đỗ Tiến Thụy như vậy. Tất nhiên nhà văn đã trả lời rồi. Joong nói: “Tôi là một con Joong, loài chim khôn nhất trong các loài chim” (tr.261), đấy là nói cho sang. Thực ra, nó chỉ là “con vẹt cụt”(tr.260), đơn giản là nó bị chụt một chân và đến cuối tác phẩm, nó bị cụt cả hai chân, vì thế, từ đấy nó cứ bay/ bay/ bay... Nhưng nếu chỉ như thế thôi thì cuốn sách này chẳng có gì đáng đọc. Xin lưu ý rằng, nhan đề của tác phẩm chứa đựng nội dung, chủ đề, tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Con chim Joong là hình tượng mang tất cả hồn cốt của tác phẩm. Hình tượng này quyết định giá trị tư tưởng, tài năng sáng tạo cả tác giả.
Có lúc tôi nghĩ đến một trò chơi chữ nghĩa (Theories of play) trong tay nhà văn Đỗ Tiến Thụy (tôi không nói đến Lý thuyết trò chơi- Game Theory). Nói thật đúng, đó là sự sáng tạo nghệ thuật đem lại những thú vị. Chẳng hạn, tiếng “hót” của con Joong. Nhà văn cho con Joong kêu bằng rất nhiều âm thanh. Khẹp khẹp, Choe; Chòe!; Choe chòe choét; choét choét choét; choe choe choe!; Choẹt choe; Tu tu tú; kẹc kẹc… Đọc đến gần cuối tác phẩm, tôi mới vỡ nhẽ. Thì ra, tiếng kêu ấy có một ý nghĩa trong mỗi tình huống nhất định. Mở đầu chương V là tiếng kêu “kẹc kẹc! (tr.260) của con Joong, liền sau đó con Joong nói rằng: ”Mua chuộc được tôi đâu phải dễ”. Đến trang 263, một nhân vật đã nói như thế này: “nó bắn dở như kẹc…”; và thế là tôi chợt hiểu tiếng chim và thái độ diễn ngôn của tác giả. Xin bạn đọc thử đoán xem những tiếng kêu khác của Joong có nghĩa là gì? Một trò chơi ngôn ngữ cũng thú vị đấy chứ?
Nhưng thú vị hơn là những tiếng nói của con Joong. Nó chỉ biết nói vài câu: “Sếp sáng suốt”, “Cậu chủ đẹp trai”, “Bà chủ xinh đẹp”. Những câu này nếu tách rời ra, thì chỉ là tiếng bắt chước của con vẹt. Tài năng của Đỗ Tiến Thụy là ghép những tiếng xu nịnh ấy vào những tình huống cụ thể của nhân vật, lặp lại nhiều lần, tạo ra sự diễu nhại gây cười (theo tinh thần Hậu hiện đại), nụ cười rất nhẹ nhưng thâm thúy (thí dụ, đoạn tả cụ Tướng trả lời trên tivi. Sau mỗi lời cụ Tướng nói, con Joong lại đế câu “Sếp sáng suốt” [Tr.108], vừa như máy móc, vừa rất khôn lanh; tưởng như thật nhưng lại là mai mỉa; ngỡ là khen nhưng lại là xót xa).
Tôi vừa nói đến cái “sự chơi” (playing) nho nhỏ của Đỗ Tiến Thụy trong ngôn ngữ con Joong, nhưng Đỗ Tiến Thụy đặt cược sinh mệnh nghệ thuật của mình vào chính hình tượng này, đó mới là “sự chơi” lớn. Con Joong trở thành nhân vật kể truyện, tức là góc nhìn trần thuật. Góc nhìn là “cái riêng” của một người, góc nhìn riêng giúp phát hiện những điều mà ở những góc khác không nhìn thấy. Góc nhìn riêng cũng quyết định chất lượng nghệ thuật của một bức ảnh. Trong văn chương cũng vậy. Góc trần thuật từ mắt nhìn của Joong là “cái Riêng” của Đỗ Tiến Thụy.
Con Joong vừa tự thuật cuộc đời nó, vừa thuật lại những sự việc diễn ra trong gia đình cụ chủ mà nó chứng kiến. Có hai câu truyện được kể song song, đan cài vào nhau. Truyện của con Joong hoàn toàn là hư cấu. Truyện của gia đình cụ Tướng là truyện đời thực. Sự kết hợp giữa hư cấu và đời thực giúp Đỗ Tiến Thụy bay lên khỏi sự phức tạp và “nhạy cảm” của vấn đề mà nếu không khéo viết, nhà văn rất dễ dính mắc.
Đặt con Joong làm góc nhìn trần thuật, Đỗ Tiến Thụy vượt qua được nhiều khó khăn của ngòi bút bị trói buộc vào chủ nghĩa hiện thực. Con Joong không có ý thức thời gian. Nhờ thế, truyện xóa nhòa ranh giới về thời gian, khiến cho tất cả những gì được miêu tả cùng đồng hiện ở hiện tại. Con Joong là loài vô tri, không có ý thức xã hội, góc nhìn của nó là góc nhìn hiện tượng. Truyện được kể bằng góc nhìn của người ngoài cuộc, nhờ thế “hiện thực” (nếu có) là hiện thực khách quan ai cũng thấy. Thí dụ, hình ảnh đoàn xe đông kìn kịt nối đuôi nhau đến chúc tết nhà bà thanh tra, chính cụ Tướng và những người khách ở quán nước nhà đối diện với nhà số 888 đều nhìn thấy, còn bên trong diễn ra những gì, mọi người tự hiểu (hiện tượng nào cũng mang bản chất).
Điều đặc sắc ở nhân vật con Joong là nó tạo ra một thế giới cuả nghệ thuật lãng mạn. Con chim Joong bay từ A tới Z là một tiểu thuyết lãng mạn. Nếu đọc cuốn tiểu thuyết này theo thước đo của chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa thì sẽ mắc sai lầm. Xin nêu một chi tiết. Truyện kể lại cảnh tra tấn của Hai Cương đối với tù Phú Quốc năm 1971 (tr.157). Lúc ấy Đỗ Tiến Thụy mới 1 tuổi (ông sinh năm 1970), và trước đó trận Khe Sanh và trận xóa sổ trại Caroll năm 1968 (Đỗ Tiến Thụy chưa có mặt trong cõi đời này), nhà văn không thể có trải nghiệm về hiện thực lúc đó để miêu tả; hoặc chi tiết về tầm vóc của cụ Tướng: “Cụ diện quân phục,ngực đỏ roẹt huân chương. Cụ gọi xe vào làm việc với tổng bí thư và chủ tịch nước” (tr.80), trong đời thực chẳng có một nhân vật nào có “quyền lực” để hành xử như vậy. Cuối tác phẩm, con chim Joong bị cụt cả hai chân, nhưng nó bay lên, bay mãi với một niềm tin mãnh liệt: “Hỡi những chàng dũng sĩ hãy quyết đấu đi! Rồi núi rừng sẽ phân định. Người tốt sẽ được đắp mộ bằng ngà voi và gạc hươu nai, người xấu, mộ sẽ được đắp bằng bọ hung và ruồi nhặng” (tr.315)
Nhắc đến hình tượng những con chim, tôi nhớ đến Bài ca chim báo bão của M. Gorky, Bài ca chim Chơ-rao của Thu Bồn, Hoa ngày thường-Chim báo bão của Chế Lan Viên, “Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm... mỗi nhà văn có khám phá riêng của mình về tư tưởng nghệ thuật thông qua hình tượng, và tôi tự hỏi hình tượng con chim Joong có ý nghĩa gì?
Con chim Joong gắn với những trăn trở bi thiết của cụ Tướng, dằn vật với những bi kịch của ông chủ Thứ trưởng và sống bên lão Bẩm, một thương binh tử tù Phú Quốc 1971, đồng thời Joong là bạn với Y Ngoan, một cô gái bị bỏ rơi và bị giày đạp. Nó là hiện thân của cái Thiện, đối mặt với cái Ác của đời thực. Trong cơn bão lửa của khẩu đại liên quạt phằm, phằm, phằm vào nhà rông nơi bọn Gấu, Beo hành lạc, con chin Joong đã bay lên, bay lên. Bây giờ nó đã cụt cả hai chân, có lẽ nó đã bứt sợi dây trói đến cụt chân để tự giải thoát mình. Đoạn tả con chim Joong bay trên cao nhớ về cha mẹ, nhìn xuống núi rừng thấy “rất nhiều trai làng, người giương nỏ, người vung giáo mác, tiếng hét vang đêm...” tiêu diệt bọn Gấu, Beo là một đoạn giàu chất thơ, đậm chất lãng mạn và sâu sắc về tư tưởng. Con chim Joong gợi cho tôi hình ảnh này: dân tộc này, từ trong đau thương, đã tự mình thoát ra và bay lên, bay mãi, dù cuộc chiến đấu còn đang tiếp tục và đầy khốc liệt. Câu truyện kết thúc bằng dấu chấm lửng, hiện thực vẫn còn đó, ngổn ngang nhiều vấn đề chưa giải quyết được...
SỰ PHONG PHÚ MÀU SẮC THẨM MỸ
Đỗ Tiến Thụy thay đổi liên tục màu sắc thẩm mỹ của truyện để tạo hiệu ứng nơi người đọc. Những chương, những đoạn thay đổi nội dung, thời gian, không gian, cách kể liên tục như chuyển cảnh trong phim hành động. Nhiều đọan thực sự là phim hành động. Thí dụ, chương X, Y, Z, cậu Gấu đón bọn Beo, rồi cùng đi săn; cảnh nổ súng để giải thoát Y Ngoan...Bên cạnh những chương đoạn miêu tả chiến tranh khốc liệt là những trang văn lắng đọng nội tâm, hoặc hình ảnh dẫm màu sắc lãng mạn. Bên cạnh sự miêu tả một cách trang nghiêm, chuẩn mực về cụ Tướng là những cảnh khôi hài, bi hài của đời thường với ngôn ngữ xô bồ của bọn Gấu, Beo như thể: “Thứ nhất là chăn thiếu gia, thứ nhì cắp tráp thư ba liếm giày” (tr.286), “Sến vãi nước hến” (204), não hết cả mề. 257...
Tôi chú ý nhiều đến nghệ thuật diễu nhại của Đỗ Tiến Thụy. Có khi chỉ là một chi tiết hài, môt câu nói hài như tiếng đế của con Joong. Nhưng đặc sắc là những tình huống hài, bộc lộ tài năng dựng cảnh, sử dụng ngôn ngữ, phát hiện các mâu thuẫn và thái độ trần thuật “tỉnh khô” của người kể. Tuy là hài, nhưng màu sắc thẩm mỹ của mỗi tình huống cũng rất khác nhau. Có khôi hài và bi hài. Có khi sử dụng cả cái tục để gây cười như trong văn học dân gian. Chương H tả cụ Tướng về quê thăm thông gia là một cảnh bi hài đầy xót thương. Cụ Tướng bị những ông trung niên hỏi móc, cụ không trả lời được. Những chiến thuật chiến lược giúp cụ chiến thắng trong chiến tranh giờ đành thúc thủ. Cái cười của nhà văn ở chương này rất “thâm”. Chương J tả hành trình cụ Tướng đi xe ôm đến nhà 888. Có con lợn Ỉn và con Joong cùng theo. Cụ quen đi xe công và không dùng tiền. Khi tay xe ôm đòi tiền, cụ lâm vào một tình cảnh mà tài thao lược quân sự của cụ không áp dụng được. Bí quá cụ bảo ông ta mang con lợn về. Sau đó cụ ngồi ở quán nước, nghe người bình dân nói về bà thanh tra con gái cụ, từng học ở Nga về, đánh đĩ trăm thằng. Cụ không sao chịu đựng nổi. Rồi cụ đến nhà số 888, xe đến chúc tết ken nghìn nghịt. Cụ không ngờ con gái cụ lại “tha hóa” đến thế. Chính ở đây, cụ đã đột quỵ. Đây cũng là một chương bi hài hết sức xót xa. Chương N (tr.171) là một hài kịch thú vụ. Bà chủ, cậu chủ vợ con Thứ trưởng Khoa, ép ông phải lên Bộ trưởng để cho họ có cơ hội làm ăn, nhưng ông quyết liệt từ chối. Cái cười của Đỗ Tiến Thụy trong tình huống này rất “hóm” (tôi dùng tiếng Bắc của Đỗ Tiến Thụy). Chương Y tả cảnh lão Bẩm và lão Khoa sau cuộc “đoác” (uống rượu dưới trăng), cả hai thi nhau đái, “Ngày xưa hai con chim ớt của Bẩm và Khoa luôn là kỳ phùng địch thủ…Thế mà bây giờ, dù đã được dồn hết hơi nén ép nhưng hai dòng nước thẳm sâu chỉ đủ lực thoát ra khỏi hai thân thể xế chiều ọp ẹp một gang…” (tr.295). “Cái tục” để gây cười được miêu tả rất “thanh”. Nhà văn còn gắn vào đó tư tưởng Thiền (tr.294). Đái là sự xả bỏ những cái dính mắc phù vân. Cái cừơi của Đỗ Tiến Thụy dẫn tôi đến cái cười trong văn học dân gian và nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong Số Đỏ. Đỗ Tiến Thụy hiền lành thâm trầm thanh lịch, phẩm chất của đất “Bắc hà“. Điều ấy có thể là một đóng góp nghệ thuật vào văn chương đương đại.
Chất thanh lịch Bắc hà ở ngòi bút Đỗ Tiến Thụy thể hiện rất rõ trong việc miêu tả sex. Những năm qua, văn chương Việt Nam có quá nhiều những trang “sex bẩn”, nó như một một kiểu thời thượng câu khách của những cây bút thị trường, có khi nó cũng được gán cho những “ý tưởng” chính trị. Dẫu biện hộ thế nào, tác giả của những trang văn ấy đã miêu tả một thức sex nhầy nhụa bản năng. Đỗ Tiến Thụy có ý thức rất sâu về văn hóa và mục đích nghệ thuật khi miêu tả sex. Sex trong tình yêu của ông chủ Khoa với Y Linh là sex đẹp, đẫm màu sắc lãng mạn. Đây là cảnh yêu đương của Khoa và Y Linh: “Mọi lời nói lúc này đều vô nghĩa. Lại xoán vào nhau. Gối từ từ quỵ. Hai người lăn tròn theo thảm hoa nghiêng nghiêng xuống mép suối. Khi nàng thoát bỏ áo váy, ông đã ngây người. Một thân hình óng nõn tràn căng sóng lượn tỏa hương hoa cỏ ngát say...” (tr. 169). Trái lại, sex của tên lính Mỹ với gái điếm là thứ sex thú vật: “Sau mỗi cuộc hành quân đều có tiệc mừng công...Gái điếm Việt Nam được trực thăng đưa lên. John Kill và Destroy được chia một ả mặt son lòe loẹt. Hai chiến binh Hoa Kỳ kẻ phía trước người đằng sau dùng những chiếc dương vật to dài đen bóng thuốn oằm oặp vào những lỗ trên cơ thể gầy nhằng của ả”, rồi John xịt tinh dịch tràn miệng ả gái điếm. Còn Destroy “gã rút khỏi thân ả điếm, bóp chặt dương vật chạy cuống quýt đến dúi vào họng” khảu súng đại liên. “Gã buông tay nghiến hàm doe môi xịt xòa” (tr.215). Từ ngữ trong tay Đỗ Tiến Thụy có sức mạnh miêu tả nhưng cũng có tầng vỉa sâu của văn hóa Việt, đồng thời thể hiện rõ thái độ miêu tả của tác giả với đối tượng của mình.
Nói chuyện ngôn ngữ, Đỗ Tiến Thụy kết hợp được ngôn ngữ truyền thống Bắc bộ với ngôn ngữ thành thị hiện đại. Tôi không rõ nhà văn đã lăn lộn như thế nào mà tích góp được vốn từ khá mới của đời sống hiện nay, rồi đưa vào trang văn để tạo nên hiệu quả nghệ thuật. Có những hình ảnh so sánh, những thành ngữ được dùng rất “đắt” như: “theo voi ăn bã mía để rồi bị nó ỉa vào đầu” (tr.284); mồm mép như tép nhảy (tr.258); ”Mặt bà chủ đỏ đẫm mồ hôi, hệt một quả gấc chín sau mưa (tr.171); “Xoan như một con cua gầy lột xác thành một nàng ghẹ cái mỡ màng” (tr.97). Chương N, đoạn Gấu dẫn bà Thanh tra đến gặp ông Khoa thuyết phục ông làm Bộ trưởng (tr. 171-174) gây ấn tượng bằng ngôn ngữ đời thường rất sống động:
Bà chủ: “Phần ông chỉ làm mỗi việc là đồng ý. Còn mọi thứ cứ để tôi và thằng Gấu lo”
Ông chủ: “Bằng cách nào?”
Cậu chủ nói chắc nịch: “Dùng T.N.T bắn vào các kho I.K.M.N, mỗi nơi một tạ là mọi chướng ngại bay sạch, đường thông hè thóang hết”
Ông chủ: “Mẹ con bà lấy đâu ra cho đủ thứ đó?”
Cậu chủ: “Thì vẫn công thức vàng thôi. Vét dưới, cúng trên, bớt lại một ít”...
Tuy vậy, nhiều từ Bắc bộ trong cuốn sách khá xa lạ với bạn đọc miền Nam: Cảnh vẫn hoang miên như thế (tr.146); Lão đứng đực người (tr.196); Nghiến hàm doe môi xịt xòa (tr.215); Mắt căng rát và cộm cạng (tr.256);Các trận đánh giữa người Việt với nhau chỉ dền dứ lẹt đẹt (tr.264); thằng bố mày sĩ bọ (tr.283); quả sai lúc liu (tr.290)…
Dù là những trang bi kịch, dù là những chương đẫm máu mấy chục năm chiến tranh, dù là cảnh miêu tả những thân phận bị dày đạp, hay sự thắng thế của cái xấu cái ác, thì màu sắc thẩm mỹ chung của tác phẩm là “Cái đẹp”, là tư tưởng nhân văn, là bản sắc văn hóa Việt và sự ý thức sâu sắc về giá trị văn chương của tác giả. Phẩm chất văn chương này là “cái riêng” của ngòi bút Đỗ Tiến Thụy đóng góp vào tiểu thuyết Việt đương đại.
CON CHIM JOONG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
Con chim Joong bay từ A tới Z đụng chạm đến nhiều vấn đề nóng của đời sống chính trị, xã hội tư tưởng hiện nay. Những vấn đề này thử thách quyết liệt “bản lĩnh nhà văn” của người cầm bút. Trước những thử thách ấy, Đỗ Tiến Thụy giữ được sự đúng mực và khôn ngoan.
Đó là vấn đề tha hóa của một bộ phận không nhỏ cán bộ, trong đó có cán bộ cấp trên (Bộ trưởng, Thanh tra), nạn chạy chức chạy quyền, vấn đề chống tham nhũng (mà cụ Tướng đã đi gặp tổng bí thư và chủ tịch nước để đặt vấn đề); vấn đề miêu tả chiến tranh; sự khác biệt thế hệ giữa cha ông sống lý tưởng và lũ con cháu sống đời sống thực dụng coi các cụ là “một đám đông thủ cựu giáo điều” (tr.39); Con ông cháu cha được quy hoạch hoạn lộ thênh thang (tr.40); sự đổ vỡ của một gia đình truyền thống; những hiện tượng kinh tế như cơn sốt bong bóng giá đất (tr. 285), chiêu thức Tầu vét hàng đẩy giá hốt bạc (tr.283)...
Viết về những vấn đề này, văn chương không thể theo kịp thời sự báo chí, và nhà văn dễ gặp “nguy hiểm” vì tính “nhạy cảm” chính trị của vấn đề. Hơn nữa, những vấn đề này văn chương Việt Nam đã viết nhiều. Làm thế nào để viết mới hơn về cái “đã cũ” mà thế hệ Lê Lựu, Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Minh Tường, Nguyễn Khắc Trường, Bảo Ninh... đã viết? Rõ ràng Đỗ Tiến Thụy đã dặt mình vào những thử thách rất lớn và nhà văn đã tìm được con đường vượt qua thử thách ấy. Dùng con Joong và khẩu đại liên M134 làm góc trần thuật, ngòi bút của Đỗ Tiến Thụy không còn bị buộc chặt vào lối viết tả thực, mà bay bổng trong cách thể hiện của riêng mình. Tuy vẫn bảm đảm những nguyên tắc về tính tư tưởng nhưng Đỗ Tiến Thụy không tái hiện chiến tranh như cách viết phản ánh hiện thực trước đây. Vì tất cả những trận đánh lớn, những chiến dịch lớn đều đã được viết lại khá đầy đủ và cụ thể trong những cuốn viết về lịch sử chiến tranh. Những bản anh hùng ca có tầm vóc sử thi cũng đã được viết, tạo thành dòng văn học có khuynh hướng sử thi.
Vậy Đỗ Tiến Thụy đã viết những gì?
Nhà văn tập trung viết về những khó khăn, những mất mát hy sinh do ta chủ quan và đặc biệt tô đậm những phẩm chất đẹp đẽ chiến sĩ (nhân vật cụ Tướng và Thứ trưởng Khoa). Tội ác của kẻ thù được tả cận cảnh ở những trận càn, những cứ điểm, những chốt tiền tiêu.
Có lúc quân đói, phải ăn món thịt chuột, và giúp dân thu hoạch mía ở bờ sông Dak Lam, để bộ đội ăn mía cầm hơi (tr.132). Trận thất bại thê thảm của cụ Tướng ngày cụ còn làm sư đoàn trưởng là một nỗi đau không thể hối lỗi. Để chuẩn bị cho chiến dịch tiếp theo, trên bổ sung cho sư đoàn 300 tay súng mới vượt Trường Sơn vào. Vậy mà, đoàn quân ấy đã bị 10 chiếc trực thăng AH-1 chụp, hy sinh gần hết, chỉ còn hơn 30 người chạy thoát vào rừng (tr.179). Một trận khác: Một đêm tháng 1 năm 1968 (tr.216), căn cứ Carol, một địa điểm cách chi khu Cam Lộ vài dặm, Việt cộng đánh bộc pha tấn công. “Tiếng hô xung phong dậy lên. Một đoàn quân ào vào căn cứ Carol tựa một cơn sóng biển…Nhưng lính trinh sát Việt Cộng đã quá sơ suất. Ngoài các kiểu hàng rào cũi lớn, mắt cáo, cánh sẻ, bùng nhùng…trong căn cứ còn có một hàng rào kiểu bãi mạ. Những sợi kẽm gai có những cánh sắc lẻm căng giăng giăng cách mặt đất 30 cm được cỏ che lấp đã khiến những đôi chân đi dép lốp khựng lại” (tr.216). Họ bị đã bị tàn sát. Ngòi bút Đỗ Tiến Thụy đã miêu tả được tất cả sự dã man của kẻ thù và bày tỏ sự xót thương không sao cầm lòng được trước sự hy sinh của người lính, mà linh hồn, thân xác và cuộc đời họ quyện trong mùi phèn đồng chiêm trũng, mùi muối biển trộn với đậu nành, cơm mốc, cà pháo và rau muống, có cả cổ tích, sắn, rau tàu bay một ít bột lương khô…”những chiến binh ngã chúi, hai tay vã sấp xuống đất, miệng kêu lên một tiếng thống thiết “Mẹ ơi!””. Ở trận phản công xóa sổ trại Carol được miêu tả sau đó (tr.231), chiến binh Việt Cộng được ngợi ca như thiên thần: “Chỉ có những thiên thần mới có thể xóa sổ một cứ điểm có 200 lính Mỹ trong vòng 20 phút” (tr.231). Sau đó là trận Khe Sanh (tr.234-237), đặc tả sự hy sinh của hai chiến sĩ Lê Văn Nhỡ và Hoàng văn Cơ.P
Chiến tranh tiếp tục Ở chương T, khẩu đại liên M134 kể lại trận thảm sát của lính Hàn ở làng An Bình (tr. 243-245). Đại úy Kim Jin Sung tuyên bố: “Khi đưa quân đến vùng này chúng ta đã nhiều lần tuyên bố với hội đồng địa phương, nếu một người lính Hàn bị giết chúng ta sẽ làm cỏ một làng”. Tội ác của chúng đối với đồng bào ta thật không sao tưởng tượng được. Khẩu M134 lại tiếp tục kể về chiến tranh biên giới Tây Nam 1979 (tr.264-265), bộ độ Việt Nam mất cảnh giác, bị bị lính Pol Pot phục kích chết thảm: “Mấy chục lính Việt Nam cụt chân, vỡ bụng ruột xổ tràn ra đất rên la quằn quại./ Chiến thuật bẫy mìn của quân Pol Pot khiến sư đoàn tôi khốn đốn” (tr. 267). Cuộc chiến biên giới phía Bắc năm 1979 cũng được M134 thuật lại sơ lược (tr.305). Đỗ Tiến Thụy bày tỏ thái độ khinh miệt kẻ thù khi miêu tả mùi của xác chết quân xâm lược qua cái mũi của khẩu AK: “thịt bọn lính, khó tả lắm. Nó là một vị hỗn hợp của rau ngô khoai sắn giống như cám cho lợn”…
Tại sao Đỗ Tiến Thụy lại tô đậm những mất mát hy sinh như vậy? Tôi hiểu rằng, đó là sự tương phản với thực tại. Nhà văn quyết liệt chống lại sự tha hóa của con người hôm nay (nhân vật bà Thanh tra, Gấu, Beo). Tiếng quát vang như sấm rền của cụ Tướng vẫn còn đó khi đuổi cổ đứa con gái ra khỏi phòng, lúc cụ nằm viện. Không thể có sự thỏa hiệp nào cả! Cụ Tướng đã quyết liệt dấn thân vào cuộc chiến mới và hy sinh, khi tất cả còn đang tiếp diễn. Thứ trưởng Khoa cũng quyết từ bỏ lợi lộc cá nhân và gia đình để giữ lấy giá trị cách người lính một thời, dù có bị vợ con tìm đủ cách o ép, ức chế. Cuộc chiến chống tham nhũng và tha hóa còn dài. Bà Thanh tra vẫn còn đó, Gấu, Beo dù đã bị tấn công song chúng vẫn còn đó. Sẽ có người bàn tán về cái chết của cụ và thái độ của nhà văn khi kết bỏ lửng. Đó là sự khôn ngoan của nhà văn. Thái độ của Đỗ Tiến Thụy là rất rõ ràng. Nhà văn khẳng định nhân cách đẹp đẽ, giàu lòng nhân ái của cụ Tướng, khẳng định những phẩm chất trong sáng của người lính làm quan như Khoa, người lính thương binh như Bẩm, nhưng cũng chỉ ra rằng, những chiến thuật chiến lược trong chiến tranh trước đây không còn phù hợp với cuộc chiến đấu mới. Khẩu đại liên M134 đã ăn thịt bao chiến binh trước kia, vậy mà, dù đã quạt bão lửa vào nhà rông (tr. 310), nơi bọn khốn đang hành lạc, cũng không sao giết được chúng. Đó là lời cảnh báo!
Những vấn đề khác cũng được bỏ lửng, bởi nhân vật kể truyện là con Joong giờ cụt cả hai chân đã bay đi. Người đọc không thể đòi hỏi điều gì vì cuộc sống vẫn đang tiếp diễn. Ngay cả trong hiện thực, cũng không ai có thể khẳng định quá trình hội nhập con người Việt Nam sẽ thế nào và chúng ta còn phải trả giá bao nhiêu lần nữa cho những sai lầm. Tôi đã thử tra cứu về cuộc vượt ngục 1971 của các tử tù Phú Quốc, tra cứu về trận đánh trại Caroll, trận Khe Sanh 1968, về cuộc càn của lính Hàn ở làng Bình An, nhưng không có những dấu tích cụ thể nào được nhà văn miêu tả. Tôi hiểu tất cả đã được nhà văn hư cấu như thật. Con chim Joong đã làm thăng hoa những bi thương của lịch sử để gửi đến chúng ta một thông điệp.
NHÀ VĂN ĐỖ TIẾN THỤY NHƯ TÔI BIẾT
Xin nói thật là cho đến giờ (2017) tôi chưa hề gặp nhà văn Đỗ Tiến Thụy ở ngoài đời bao giờ. Tôi nói đến con người nhà văn trong tác phẩm và qua tác phẩm.
Văn của anh có chất say. Dù viết những cảnh lãng mạn hay những cảnh khốc liệt thì chất say ấy cứ quyện lấy người đọc. Chấy say tóat ra từ cảm xúc đã chín, những suy tư đã dày dạn và nhiệt tình chia sẻ đã bốc lửa, chất say của sự sáng tạo. Văn anh say nhưng nhà văn Đỗ Tiến Thụy lại rất tỉnh táo. Anh rất bạo tay tung vấn đề (thí dụ chương H kể truyện cụ Tướng về quê thăm cụ Trưởng, cụ bị các ông trung niên hỏi móc), nhưng cũng rất cẩn trọng ngòi bút không để quá đà. Anh biết nuôi dưỡng câu truyện, nuôi dưỡng vấn đề trong lòng người đọc. Sư day dứt của những vấn đề hiện thực chưa được giải quyết, có thể sẽ khiến người đọc hụt hẫng, nhưng truyện lãng mạn không được viết để giải quyết hiện thực, mà để ngân vang trong lòng người đọc.
Đỗ Tiến Thụy có khá nhiều tài. Anh thẩm định tiếng hát của Y Ngoan bằng chuẩn mực âm nhạc không thể chê (tr. 251). Anh tả các món ăn cực kỳ hấp dẫn, dù đó là món dân dã (tr.254). Hẳn Đỗ Tiến Thụy là người sành ăn và khéo làm bếp, lính mà! Việc gì chẳng làm được? Anh có ưu thế viết về người lính, về đời lính. Anh cũng thâm nhập khá sâu vào đời sống xã hội. Nét đẹp ánh lên từ những trang văn của anh là nét tài hoa và lòng nhân ái (cụ Tướng nhất mực bảo vệ Joong và lợn In, cụ để chúng bên mình; hình ảnh chị nhặt rác, cũng là người tạp vụ đã chăm sóc Khoa lúc sốt rét nằm ở phòng gần nhà xác). Đỗ Tiến Thụy lúc mãnh liệt thì ào ạt như sóng gầm thác đổ, sét đánh, lúc nhẹ nhàng tinh tế lại như “Mặt trăng tí xíu chầm chậm lặn xuống đáy ghè rượu” (tr. 300).
Tôi hiểu vì sao nhiều người đọc yêu mến văn anh. Và tôi mừng rằng, nơi ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế đã có những nhà văn kế thừa xứng đáng với nhiều thế hệ nhà văn đi trước như: Nguyễn Khải, Hữu Mai, Hồ Phương, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Lê Lựu, Nguyễn Trí Huân, Khuất Quang Thụy…
Xin chúc mừng nhà văn Đỗ Tiến Thụy và kính chúc anh dồi dào ý tưởng sáng tạo.