Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Một số thành ngữ xuất sứ từ thơ cổ Trung Hoa

Nguyễn Ngọc Kiên
Thứ ba ngày 24 tháng 12 năm 2013 8:31 PM

 

1) Thành ngữ và thành ngữ trong tiến Hán

Thành ngữ là cụm từ hay ngữ cố định có tính nguyên khối về ngữ nghĩa, tạo thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung khác tồn số ý nghĩa của các thành tố cấu thành nó tức là không có nghĩa đen và hoạt động như một từ riêng biệt trong câu
Thành ngữ tiếng Hán phần lớn có nguồn gốc từ những câu truyện lịch sử, những điển tích xưa, và sau khi hình thành thì cấu trúc của nó thường ổn định từ cổ chí kim. Hay nói cách khác, thành ngữ được dùng trong tiếng Hán hiện đại phần lớn được giữ nguyên trạng từ thành ngữ trong tiếng Hán cổ.
Trong bài viết này chúng tôi sẽ giới thiệu một số thành ngữ tiếng Hán có xuất xứ từ thơ cổ và có liên hệ với một số thành ngữ tương đương trong tiếng Việt.

2)  Một số thành ngữ có nguồn gốc từ  thơ cổ

Trong tiếng Hán, có nhiều thành ngữ có nguồn gốc từ những bài thơ cổ. Chẳng hạn, thành ngữ  “倾国倾城” (nghiêng nước nghiêng thành) có nguồn gốc từ bài “Giai nhân ca” (佳人歌) của Lý Diên Niên (李延年). Chuyện rằng, vua Vũ Đế đời Hán (40-86 trước Công nguyên) có một người hầu tên là Lí Diên Niên, anh ta rất giỏi múa hát và thông hiểu âm luật, được nhà vua yêu mến, cưng chiều. Nhà vua cho xây cung điện Minh Quang và tuyển chọn những người con gái đẹp tuổi từ 15 trở lên vào cung để hầu hạ  vua. Trong cung có tới gần 10 ngàn mĩ nữ nhưng vua vẫn chưa thấy ai đẹp như ý và thường lắc đầu than thở: Đời nay thiên hạ không có giai nhân tuyệt sắc! Một hôm, Lí Diên Niên múa hát mua  vui cho nhà vua xem. Lí hát rằng:
  北方有佳人,
绝世而独立。
一顾倾人城,再顾倾人国。
宁不知倾城与倾国?
佳人难再得!
Phiên âm:
Bắc phương hữu giai nhân,
Tuyệt thế nhi độc lập.
Nhất cố khuynh nhân thành,
Tái cố khuynh nhân quốc.
Ninh bất tri, khuynh thành dữ khuynh quốc,
Giai nhân nan tái đắc.

(Dịch nghĩa: Ở phương Bắc có một người đẹp, đẹp nhất đời mà đứng riêng một mình. Quay đầu lại một lần thì làm nghiêng thành trì của người ta, quay đầu lại nhìn lần nữa thì làm nghiêng nước người ta, thà chẳng biết nghiêng nước với nghiêng thành , chỉ biết là người đẹp thì khó gặp.)

Bản dịch thơ khuyết danh:
Bắc phương có một giai nhân
Dung nhan tuyệt thế cõi trần đứng riêng
Liếc nhìn, thành quách ngả nghiêng
Liếc thêm lần nữa nước liền lung lay
Thành nghiêng nước đổ mặc bay
Giai nhân há dễ gặp hoài được sao
Chị của vua Vũ Đế là Bình Dương công chúa đứng hầu bên cạnh bèn  tâu: “Lý Diên Niên có một người em gái giỏi múa hát và đẹp tuyệt trần như trong bài ca đó”. Nhà vua cho vời người đẹp vào cung, xem mặt. Quả nhiên nhà vua bỗng xao xuyến, rạo rực như có một luồng điện chạy khắp người khi nhìn thấy nàng mỹ nữ nhan sắc tuyệt trần, yêu kiều, diễm lệ. Vua liền phong nàng làm làm chánh cung hoàng hậu và ngày đêm si mê, đắm đuối bên nàng. Từ đó xuất hiện thành ngữ “倾国倾城” (nghiêng nước nghiêng thành) để chỉ người con gái đẹp.

Nhà thơ Bạch Cư Dị đời Đường đã để lại kiệt tác “Trường hận ca” miêu tả mối tình giữa Đường Minh Hoàng và Dương Qúi Phi trong đó cũng sử dụng thành ngữ này:
漢皇重色思傾國
御宇多年求不得
Phiên âm:
Hán hoàng  trọng sắc tư khuynh quốc
 Ngự vũ đa niên cầu bất đắc

(Dịch nghĩa: Vua Hán trọng sắc đẹp, muốn có một người “nghiêng nước nghiêng thành”.  Ở ngôi bao năm tìm kiếm không được)

Trong tiếng Việt, thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” cũng được sử dụng với ý nghĩa giống như vậy. Trong kiệt tác “Truyện Kiều”, đại thi hào Nguyễn Du đã tả sắc đẹp của nàng Kiều:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành họa một tài đành họa hai
Ông Đỗ Phủ (杜甫) là người làm thơ nổi tiếng đời Đường. Hầu hết mọi người Việt Nam đều biết tới ông qua “Di chúc” của Hồ Chí Minh với câu thơ nổi tiếng “Nhân sinh thất thập cổ lai hi” (Người thọ bảy mươi  xưa nay hiếm) trong bài “Khúc giang” (曲江). . Nguyên văn:

朝回日日典春衣, 
點水蜻蜓款款飛。
傳語風光共流轉,
暫時相賞莫相違。
每日江頭盡醉歸。   
酒債尋常行處有,
人生七十古來稀。
穿花蛺蝶深深見,
點水蜻蜓款款飛。
傳語風光共流轉,
暫時相賞莫相違。

Phiên âm:
Mỗi nhật giang đầu tận tuý quy.
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,
Nhân sinh thất thập cổ lai hy.
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện,
Ðiểm thuỷ thanh đình khoản khoản phi.
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,
Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.

(Dịch nghĩa: Ngày ngày khi ở trong triều đình ra về ta đem cầm cái áo xuân để mua rượu. Mỗi ngày ta uống thật say ở đầu sông rồi mới trở về. Nợ rượu thường ở nơi nào cũng có. Người đời xưa nay ít ai thọ được tới bảy mươi tuổi. Nhiều con bươm bướm châm hoa thấp thoáng hiện. Những con chuồn chuồn dỡn nước dập dờn bay. Hãy nói cho mọi người biết rằng: theo thời gian phong cảnh đều thay đổi. Ta hãy tạm cùng nhau thưởng ngoạn, đừng nên để lỡ dịp.)

Bản dịch của nhà thơ Khương Hữu Dụng:
Áo chầu tan buổi cởi cầm tay,
Hằng bữa đầu sông về khướt say.
Nợ rượu tầm thường đâu chẳng có,
Người đời bảy chục mấy xưa nay.
Luồn hoa bươm bướm chen chen lượn,
Điểm nước chuồn chuồn thoáng thoáng bay.
Quang cảnh, nhắn cho thường biến đổi,
Tạm vui xuân với, kẻo e hoài.

Bài thơ này cũng là xuất xứ của thành ngữ tiếng Hán “蜻蜓點水” (chuồn chuồn đạp nước). Thành ngữ này có nghĩa bóng: làm ăn hời hợt,  chiếu lệ, qua loa cho xong chuyện, không sâu sát, kĩ càng. Để diễn đạt ý nghĩa này, người Việt cũng nói: “chuồn chuồn đạp nước”, hoặc các biến thể: “chuồn chuồn chấm nước”, “chuồn chuồn lẹo nước”.

Bài thơ “Bần giao hành” (贫交行) cũng của Đỗ Phủ (杜甫) có bốn câu:
翻手为云复手雨,纷纷轻薄何须数。
 君不见管鲍贫时交,此道今人弃如土。
Phiên âm:
Phiên thủ tác vân, phúc thủ vũ,
Phân phân khinh bạc hà tu sổ ?
Quân bất kiến Quản Bão  bần thì giao,
Thử đạo kim nhân khí như thổ.

(Dịch nghĩa: Nghiêng bàn tay làm mây, úp bàn tay làm mưa. Bọn người khinh bạc cần chi đếm. Bạn chẳng thấy Quản Trọng và Bão Thúc Nha bạn với nhau lúc nghèo. Đạo ấy người đời nay vứt đi như vứt hòn đất)

Bản dịch của Trần Trọng Kim:
Mây mưa tráo trở bàn tay,
Những tuồng khinh bạc đời này biết bao.
Không coi giao nghị Quản Bào,
Mà nay đạo ấy rẻ sao như bùn.

 Câu thơ trong bài dùng thủ pháp khoa trương đặc sắc: “翻手为云复手雨”  sau biến ra thành ngữ: “翻手为云、覆手为雨” có hàm ý là ngửa bàn tay là mây, úp bàn tay là mưa, chỉ sự thay đổi như chong chóng, không biết đâu mà lần.
Trong bài “Trường hận ca” 《长恨歌》của Bạch Cư Dị có câu:
 後宮佳麗三千人,
三千宠爱在一身
Phiên âm:
Hậu cung giai lệ tam thiên nhân
Tam thiên sủng ái tại nhất thân
(Dịch nghĩa:  Ba nghìn người đẹp ở chốn hậu cung . Lòng thương yêu ba nghìn người nay dồn vào một nàng)
Hai câu thơ trên là xuất xứ của thành ngữ “三千宠爱” (ba nghìn sủng ái) chỉ sự yêu thương vô hạn.
Còn hai câu thơ trong “Tì bà hành “琵琶行”của Bạch Cư Dị:
曲终收拨当心划,
四弦一声如裂帛
Phiên âm:
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch
 Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch.

(Dịch nghĩa: Gảy xong bài, phảy một nhát mạnh giữa mặt đàn
Bốn dây phát ra thứ tiếng như xé lụa)
Câu thơ trên lại là xuất xứ của thành ngữ “声如裂帛” [thanh như liệt bạch] (tiếng như xé vải).

Trên đây là một số thành ngữ trong tiếng Hán có xuất xứ từ những bài thơ cổ. Ngôn ngữ không chỉ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người mà nó còn là công cụ để lưu giữ những giá trị văn hóa – lịch sử và truyền thừa từ thế hệ này qua thế hệ khác. Việc tìm hiểu văn hóa của một dân tộc thông qua vốn thành ngữ cũng hết sức thú vị.