Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

KHÍ PHÁCH NGƯỜI ĐI SỨ

TQT
Chủ nhật ngày 17 tháng 7 năm 2011 5:17 AM

         TQT: Từ khi lập quốc đến nay, biết bao đoàn sứ bộ Việt Nam sang đàm phán với Trung Hoa, có lẽ hai sứ thần Giang Văn Minh và Nguyễn Biểu là những người trung dũng, “ bất nhục quân mệnh”, dám bỏ thân vì nghĩa lớn, đáng để ta khâm phục và suy ngẫm hơn cả. Còn nhiều chuyến đi nữa, mong 2 ông chỉ đường, phù hộ cho những chuyến đi của sứ bộ ta.  
   
Nguyễn Biểu -sứ giả can trường.
    
Nguyễn Biểu (?- 1413) là tướng nhà Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam, quê ở quê làng Bình Hồ, huyện La Sơn, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Yên Hồ, Đức Thọ, Hà Tĩnh). 
     Thân thế của Nguyễn Biểu sử sách chỉ chép là người làng Bà Hồ, huyện Chi La (nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh) không chép ngày tháng năm sinh cha mẹ là ai, làm gì. (Lã Duy Lan trong bài: Từ Nguyễn Du đến Nguyễn Biểu thì cho cho rằng ông quê Thanh Oai, cùng dòng tộc với Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan… ) Ông đỗ Thái học sinh thời Trần, ( có sách nói đậu khoa Nhâm Dần (1400) cùng Nguyễn Trãi) đã từng theo giúp vua Trùng Quang nhà Hậu Trần từ những ngày đầu mới lên ngôi, lấy đất Bà Hồ, huyện Chi La làm căn cứ tổ chức cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Lúc bấy giờ lực lượng kháng chiến của Giản Định đế Trần Ngỗi đã suy yếu, Trùng Quang đế đã tìm cách đưa Trần Ngỗi về Bà Hồ tôn làm Thái Thượng hoàng thống nhất lực lượng kháng chiến. Từ đó Bà Hồ chỉ còn lại lực lượng nhỏ, Thượng Hoàng  cùng các tướng đều đưa quân ra trận, thời gian này nghĩa quân lúc tiến ra Bắc, lúc lui về Diễn Châu, Nghệ An, nhưng sau trận thua ở Thần Đầu vào năm 1412 nghĩa quân bị tổn thất nặng. Quân Minh chiếm Thanh Hoa, Diễn Châu và thành Nghệ An, vua Trùng Quang phải rút vào giữ vùng Tân Bình -Thuận Hoá và sai Nguyễn Biểu đi sứ cầu phong ở thành Nghệ An tìm kế hoà hoãn chờ đợi thời cơ.
       Về việc đi sứ và cái chết của ông, Đại Việt sử ký Toàn thư chỉ chép: “Mùa hạ tháng 4 năm Quý Tỵ (1413) bọn Trương Phụ nhà Minh đánh mạnh vào Nghệ An, vua chạy về Châu Hoá sai Đài quan là Nguyễn Biểu làm sứ cầu phong mang sản vật địa phương đến Nghệ An. Trương Phụ giữ lại, Biểu tức giận mắng rằng: “Trong bụng muốn đánh lấy nước người, bên ngoài giả làm quân nhân nghĩa; đã hứa lập con cháu nhà Trần nay lại đặt quận huyện, không những chỉ cướp lấy vàng bạc, châu báu còn giết hại nhân dân, thực là giặc tàn ngược”. Phụ giận lắm đem ông ra giết.
     Còn trong sách “Nghĩa Sĩ truyện” thì chép rằng: “Khi tới trước quân Trương Phụ, bọn giặc bắt ngài lạy. Ngài đứng trơ không nhúc nhích. Nhân thế giặc đặt tiệc thết, nấu một đầu người mà mời, cốt để cho rõ ý ngài. Ngài tức thì lấy đũa khoét hai mắt, hoà với dấm mà nuốt”. Trong bản chép tay kèm ở trong gia phả họ Nguyễn có thêm:     Lúc bày tiệc ra ngài cười mà nói: “Đã mấy lúc người Nam lại được ăn đầu người Bắc”. Trương Phụ cảm phục đối xử tử tế rồi cho ông về. Nhân đó Phụ hỏi viên hàng thần Phan Liêu: “Nguyễn Biểu là người thế nào?” Liêu vốn có hiềm khích với ông bèn nói: “Người ấy là hào kiệt c ủa n ước Nam, Ngài muốn lấy nước Nam mà không có người này thì việc thành sao được”. Phụ sai người đuổi theo bắt ông lại hòng uy hiếp mua chuộc nhưng khi Nguyễn Biểu bị dẫn đến trước dinh, Trương Phụ bắt ông lạy ông vẫn đứng thẳng không hề run sợ. Ông nói: Ta là tôi vua phương Nam, ngươi là tôi vua đất bắc, là bề tôi cả sao lại bắt nhau quỳ được? Phụ mắng ông vô lễ ông bèn vạch âm mưu và tội ác của giặc. Phụ tức giận sai quân đưa ông ra trói dưới cầu Yên Quốc (tức cầu Lam, một nhánh sông Lam chảy giữa hai làn Vệ Chánh và Quang Dụ xưa) cho nước lên dìm chết. Ông lấy móng tay vạch vào cột cầu 8 chữ: “Thất nguyệt, sơ nhất nhật, Nguyễn Biểu tử” (ngày mồng 1 tháng 7 Nguyễn Biểu chết).   Trương Phụ giết ông nhưng phải ngầm kính phục cho đưa thi hài về Bình Hồ an táng. Vua Trùng Quang được tin ông tử tiết hết sức thương xót sai làm văn Dụ tế, nhà sư chùa Yên Quốc cũng soạn bài tụng, làm lễ cầu siêu cho ông. Nguyễn Biểu vị sứ giả can trường của dân tộc đã hy sinh anh dũng trong cuộc kháng chiến chống xâm lược nhà Minh. Tiết tháo của Nguyễn Biểu thật là lẫm liệt, trước giặc giữ lòng chỉ nghĩ đến vua, trước vận suy của nước vẫn làm rạng danh quốc thể.
   Tin thêm: Khu di tích đền Nguyễn Biểu đã khởi công đại trùng tu hôm 16-6-2011 với kinh phí 7,6 tỉ. (Ảnh phải: GĐ sở VH-TT-DL Võ Hồng Hải phát mộc trong lễ khởi công). Ngày 1.7 (âl) chính quyền địa phương và dòng tộc sẽ tổ chức thắp hương và toạ đàm. Ai có điều kiện kính mời về dự lễ.
(Ảnh trái: Trần Quốc Thường và cô Hoàng Thạch Liên trước mộ Nguyễn Biểu)
  
Thám hoa Giang Văn Minh - Sứ thần Bất nhục quân mệnh” 

      Giang Văn Minh (1573 - 1638) tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, là quan nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông được mệnh danh là vị sứ thần “Bất nhục quân mệnh” (Không để nhục mệnh vua) vì đã đối đáp thẳng thắn trước triều đình Trung Quốc và bị vua Minh Tư Tông hành hình vào năm 1638, thọ 65 tuổi.
     Ông sinh năm 1573, tại làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây trước năm 1945), (nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây , Hà Nội. Ông từng đỗ đầu kỳ thi Hội, rồi thi Đình lại đỗ Đình nguyên Thám hoa khoa Mậu Thìn, năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời Lê Thần Tông[3]. Khoa thi này không có ai đỗ Trạng nguyên hay Bảng nhãn, vì vậy ông là người đỗ cao nhất trong cả khoa thi. Sau khi đỗ đạt, ông lần lượt được bổ nhiệm vào các chức vụ như Binh khoa đô cấp sự trung (1630), Thái bộc tự khanh (1631).
    Ngày 30 tháng 12 năm Dương Hòa thứ 3 (1637), ông và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm chánh sứ cùng với 4 phó sứ là: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh. Sau khi chết, ông được truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công.
     Vào thời điểm ông đi sứ, mặc dù nhà Mạc đã bỏ chạy ra Cao Bằng, nhưng nhà Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt (với cả nhà Hậu Lê và nhà Mạc) với mục đích để cuộc chiến tranh Lê-Mạc kéo dài[4]. Đoàn sứ bộ của Giang Văn Minh đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh) vào năm 1638.
     Đến khi triều kiến, Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (tức hoàng đế Sùng Trinh) lấy lý do “Vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong khi còn chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ” để ngăn trở việc công nhận sự chính thống của nhà Hậu Lê và bãi bỏ công nhận ngoại giao với nhà Mạc.
      Đồng thời, Chu Do Kiểm còn ngạo mạn ra cho sứ bộ một vế đối như sau:
“Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”
Nghĩa là:
Cột đồng đến nay rêu đã xanh.
    Câu này có hàm ý nhắc tới việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong).
    Trước sự ngạo mạn đó, Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu:
Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
Nghĩa là:
Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ.
    Vế đối này vừa chỉnh, vừa có ý nhắc lại việc người Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng.
     Vào thời bấy giờ, câu đối này được xem là cái tát thẳng vào mặt hoàng đế nhà Minh trước đông đảo văn võ bá quan của Thiên triều và sứ bộ các nước. Vua nhà Minh bừng bừng lửa giận quên mất thể diện thiên triều, bất chấp luật lệ bang giao, đã trả thù bằng cách trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc này xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Nhưng Minh Tư Tông vẫn kính trọng ông còn cho ướp xác ông bằng bột thủy ngân và đưa thi hài ông về nước. Khi thi hài của ông về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu ông và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công, ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ).
     Sau khi thi hài được đưa về nước, Giang Văn Minh được chôn cất tại Đồng Dưa, thuộc xứ Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm. Trên cánh đồng này có một quán (hiện có dạng ngôi nhà) nhỏ là nơi linh cữu ông đã được quàn và gọi là quán Giang. Hiện nay, nhà thờ ông ở làng Mông Phụ đã được nhà nước Việt Nam xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa. ‎