Năm 1997, tập thơ thứ hai của tôi được NXB Hội Nhà văn Việt Nam cấp giấy phép. Đây là niềm sung sướng vô hạn đối với tôi, một tay làm thơ nghiệp dư tỉnh lẻ. Tập thơ mỏng dính, 48 trang có cái tên rất… tinh tướng: DƯỚI TRỜI XANH. Thật ra, cái tên này không phải do tôi đặt mà của Nhà văn Tạ Duy Anh. Dạo đó, lão Tạ mới từ trường Viết văn Nguyễn Du về Nhà xuất bản của Hội. Tôi gửi bản thảo qua Nhà văn Vũ Hữu Sự nhờ Tạ biên tập. Tôi không nhớ khi đó, mình đặt tên tập thơ đó là gì nhưng ngày lên Hà Nội nhận sách, tôi ngây người cảm phục những nhà biên tập vì đó là tên một trong số những bài thơ tôi rất thích: CHẾT DƯỚI TRỜI XANH.
Bài thơ này được tôi viết vào mùa đông năm 1996. Dạo đó, ở vườn hoa thị xã Thái Bình quê tôi có nhốt một con vượn trong chiếc chuồng hàn bằng sắt tròn, cỡ $14. Mỗi buổi sáng mùa đông, khi những cơn gió lạnh lẽo của núi rừng phương Bắc thổi về, con vượn lại tru lên những hồi thảm thiết. Những tiếng hú nức nở dài lê thê, da diết một nỗi nhớ rừng và khao khát tự do khiến buổi sáng mùa Đông mù sương càng thêm thê lương, lạnh lẽo. Đã không ít lần cái ý nghĩ cắt toang lồng sắt, giải thoát cho nó nảy ra trong tôi dù tôi biết nếu như nó sổ lòng, cùng lắm là nửa ngày sau nó sẽ chết vì sự săn đuổi của con người. Tôi đã có mong muốn trả nó về với rừng dù biết rằng sớm muộn nó cũng sẽ chết vì không còn biết cách trèo cây hái quả và không thắng nổi sự cô đơn. Nhưng điều tôi lo sợ nhất là nếu được thả ra, nó sẽ vẫn quanh quẩn ở cái vườn hoa chật chội này rồi một lúc nào đó vì miếng ăn tự nguyện chui trở lại chuồng thì khi ấy trong tôi sẽ là sự đổ vỡ kinh hoàng. TỰ DO là khát vọng mãnh liệt không chỉ của con người và cái giá của nó không ở đâu và bao giờ rẻ.
Vói ý nghĩ như vậy, tôi đón nhận tập thơ với niềm sung sướng cộng với sự cảm phục các “bà đỡ” của Nhà xuất bản đã đồng cảm và chia sẻ với tôi, một tay nhà thơ nghiệp dư tỉnh lẻ. Khi cầm tập thơ, không giấu được cảm xúc của mình, tay tôi run run lần giở từng trang giấy còn thơm mùi mực in tìm bài thơ mình yêu thích giờ là tên tập sách. Nhưng tìm đi tìm lại, tôi vẫn không thấy nó đâu. Tưởng nhà in đóng sót, tôi lần tìm trong mục lục nhưng cũng không thấy. Vừa lúc ấy, Tạ Duy Anh đi đến. Như đọc được ý nghĩ của tôi, Tạ bảo:
- Bài thơ của ông tôi đã biên tập và lấy làm tên tập sách. Nhưng khi trình duyệt, các bố ấy lại bỏ ra - Nói đến câu “các bố ấy”, Tạ toét cái mồm đầy… răng ra cười, tay chỉ chỉ lên phía phòng bác Phú (Nhà thơ Ngô Văn Phú – GĐ NXB), bác Hách (Nhà văn Nguyễn Phan Hách – Phó GĐ kiêm TBT NXB). Thấy tôi còn có vẻ buồn buồn, cái lão Tạ “Đã cao, đã hói còn gầy – Mới nhênh nhếch mép đã đầy… mồm răng” vỗ đùi đen đét, cười nghiêng ngả, bảo - “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Bìa có trời xanh mà ruột “đếu” có trời xanh. Thế tập thơ của ông mới ác chứ. Nào, bia đi.
- Ờ. Bia thì bia. Tôi phụ họa.
Tôi không nhớ mình khi đó đã vào quán như thế nào, ưống bao nhiêu bia và nói những chuyện gì. Cũng gần 15 năm qua, tôi tuyệt nhiên không nhớ chuyện này. Vừa rồi, lần tìm trong đống bản thảo cũ, bắt gặp bài thơ và chợt thấy những kỉ niệm cũ hiện về.
Có lẽ con vượn ở vườn hoa năm nào đã chết từ lâu nhưng tiếng hú nức nở dài lê thê, da diết một nỗi nhớ rừng và khát vọng tự do của nó vẫn còn mãi trong tôi.
B.H.T
Với một con vượn ở vườn hoa Thái Bình
Thôi
Đừng kêu nữa vượn ơi!
Lời mày hú sao mà thê thảm quá
Ta sẽ vỡ
Dẫu hồn ta là đá
Hú…hù…hu…!
Thăm thẳm xoáy vào tim.
Nhớ bạn bè
Nhớ bố mẹ, anh em
Nhớ những buổi chiều vàng chuyền cành hái trái…
Nhưng giả sử ta trả tự do cho mày
Liệu núi rừng kia có nhận lại mày không?
Không anh em
Không cả bạn bầu
Mày không còn nhớ cách trèo cây hái quả?
Rồi mưa nắng
Rồi còn thú dữ
Ra khỏi chốn giam cầm
Mày - vẫn - phận - tù lao…!
Nhưng ta biết
Mày thèm khát tự do
Vẫn mơ giấc mơ rừng
Dẫu cái chết với mày là không tránh khỏi
Ta cầu cho mày
Còn đủ sức trèo lên đỉnh núi
Hú một hơi dài
Rồi
Chết dưới trời xanh!
Nữ thần Tự Do
Đi du lịch ba lô
Hải quan hỏi:
- Bà sinh ở đâu?
- Ta sinh ở Pháp
- Bà sống ở đâu?
- Ta ở Hoa Kỳ!
Hải quan ghi:
Nữ thần Tự Do người Hoa Kỳ gốc Pháp.
Thần Tự Do bật khóc!...