Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

HỒ SƠ TỘI ÁC CỦA GIẶC MINH ĐẦU THẾ KỶ 15

Hoàng Quốc Hải
Chủ nhật ngày 10 tháng 8 năm 2025 8:49 AM



LỜI MỞ ĐẦUTỄU - BLOG: NHÀ VĂN HOÀNG QUỐC HẢI GỬI THƯ KHẨN CHO CHỦ TỊCH NƯỚC

Nhân dân Việt Nam và Nhân dân Trung Hoa từ cổ xưa tới nay không hề có oán thù gì nhau. Ngược lại, dân hai bên biên giới còn cưu mang nhau khi khó khăn, hoạn nạn. Lật mở hồ sơ tội ác của giặc Minh đầu thế kỷ 15, không có nghĩa là khơi lại hận thù dân tộc theo chủ nghĩa dân tộc vô minh. Điều đó không tương thích với tinh thần cao thượng và nhân văn của Nhân loại trong thế giới phẳng ngày nay.

Tuy nhiên, nhân loại tiến bộ, thời thế đổi thay, nhưng thật là nghiệt ngã, mưu mô hiểm độc của giới cầm quyền Trung Hoa từ cổ đại tới nay đối với Đất nước Việt Nam, Nhân dân Việt Nam không hề thay đổi. Nực cười, kể cả chính quyền Cộng sản Trung Hoa hiện đại, đối với các đồng chí Cộng sản Việt Nam cùng chí hướng, chúng vẫn xâm lược Việt Nam, vẫn tìm mọi cách làm cho Việt Nam suy yếu, buộc phải phụ thuộc chúng. Vậy là, chủ nghĩa Đại bá - Đại Hán của giới thống trị Trung Hoa từ ngàn xưa tới nay, không hề mảy may thay đổi đối với Nhân dân ta, Đất nước ta.

Hồ sơ này nhằm nhắc nhở mỗi công dân Việt Nam, nếu còn ý thức mình là người Việt Nam, phải có trách nhiệm giữ gìn mảnh đất thiêng liêng đã thấm máu ông cha ta từ ngàn đời. Và chớ nhẹ dạ tin vào những lời phỉnh dụ của giới cầm quyền Trung Hoa. Lại nữa chớ nhát gan run sợ trước đe doạ của nhà cầm quyền Trung Quốc. Nên nhớ, chúng ta đã 3 lần chiến thắng quân Mông-Nguyên, trong khi Trung Hoa gục ngã, bị người Mông Cổ cai trị tới cả trăm năm.

Hãy đoàn kết chặt chẽ và hữu nghị với Nhân dân Trung Quốc, nhưng phải thường trực cảnh giác cao độ với nhà cầm quyền Trung Hoa.

Lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, hà khắc với dân. Minh Thành tổ rắp mưu xua quân sang xâm lược nước ta. Với chiêu bài cứu dân ta thoát khỏi nanh vuốt của nhà Hồ, và tìm lại con cháu nhà Trần để khôi phục đế vị.

Liền đó, nhà Minh lại được Bùi Bá Kỳ, tự nguyện làm tay sai cho giặc, y lặn lội tìm đường vào tận Yên Kinh ( Bắc Kinh ) xin giặc đem quân sang giúp nhà Trần lấy lại ngôi nước, do nghịch thần Lê Quý Ly soán đoạt, và y tình nguyện làm kẻ dẫn đường. Trước khi trở về làm kẻ đưa đường cho giặc, Bùi Bá Kỳ còn được nhà Minh ban tước và mũ áo Minh triều. Dù với động cơ nào, hình thức nào cũng không thể biện minh tội rước giặc vào tàn phá Tổ quốc mình của Bùi Bá Kỳ.

LỜI DẪN:- Lập “ Hồ sơ tội ác giặc Minh”. Có thể bạn đọc hỏi, tài liệu này lấy ở đâu, và nguồn dẫn?

Xin thưa, tài liệu chúng tôi dựa hẳn vào phía Trung Quốc. Căn cứ vào chính lịch sử của nhà Minh được ghi chép cẩn thận, tức “Minh thực lục” là bộ sử biên niên của 13 triều vua thuộc thời đại nhà Minh nước Trung Hoa.

Tài liệu thứ hai được sử dụng trong chuyên đề này là sách “Việt kiệu thư” của Lý Văn Phượng. Ông người Nghi Sơn thuộc Quảng Tây (TQ), sinh năm 1500, đậu tiến sĩ khoa Nhâm thìn niên hiệu Gia tĩnh thứ 11 (1532), năm 32 tuổi; giữ chức Đình úy Đại lý bình sự, đổi Thiếu khanh, rồi lại ra làm Thiêm sự các tỉnh Quảng Đông, Vân Nam.

Sách Việt kiệu thư của Lý Văn Phượng chuyên khảo về Địa lí, Lịch sử của An Nam. Sách có độ tin cậy cao, được nhiều học giả trích dẫn.

Tôi sử dụng cả “Minh thực lục” và “Việt kiệu thư” cùng nói về một vấn đề, nhằm bổ sung cho nhau được phong phú, cũng đồng thời để so sánh đối chiếu, và kiểm chứng nữa. Đó là các tài liệu nguồn. Ngoài ra chúng tôi còn dùng nguồn từ Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên; Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim và Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú.

Những tư liệu được dẫn ra đây có khi cả hai sách cùng chép trùng nhau, có khi sách này chép mà sách kia không chép. Cùng một sự việc trong Minh thực lục cứ nhắc đi nhắc lại, không phải tôi trích dẫn nhầm mà ở đây Minh Thành tổ xem xét chức trách, thường nhắc lại với cấp dưới những công việc mà ông ta cho là chính yếu, sợ tướng ngoài biên sao nhãng. Ví như việc thiêu hủy triệt để nền Văn hóa Đại Việt, việc tìm bắt các nhân tài Đại Việt mà ông ta quan tâm hàng đầu... Tuy đã khẩu dụ, đã bắt viên Tổng binh phải ghi chép vào một cuốn sổ do đích thân nhà vua phát tận tay. Nhưng ông vẫn không yên tâm. Có khi cùng một công việc, ngày hôm trước, ông đã có Dụ, ngày hôm sau ông lại Dụ tiếp cũng về việc đó. Trong trích dẫn, chúng tôi vẫn để nguyên. Độc giả theo dõi nên nhận biết, đây là chủ trương rất thâm độc của Minh Thành tổ, nhằm tiêu diệt tận gốc nền Văn hóa Đại Việt, diệt chủng dòng giống Việt tộc, nên ông ta theo dõi và chỉ đạo rất sát sao. Hoặc như việc ông ta nhắc đi nhắc lại không mệt mỏi việc thu hồi các SẮC, DỤ ông ta đã ban ra “một chữ cũng không để sót.”

Trong trích dẫn, chúng tôi không đưa về từng chủ đề, mà tôn trọng sự việc ghi chép theo thời gian tuyến tính như trong nguyên tác.

Còn việc xưng hô với Minh Thành tổ như thế nào cho tiện, và cho hợp phép lịch sự tối thiểu. Thật ra, với tội ác diệt chủng văn hóa, và diệt chủng chủng tộc, thì Minh Thành tổ không thua kém A. Hitler. Hơn nữa dân tộc ta là nạn nhân trực tiếp, nạn nhân truyền kiếp của các đế chế Trung Hoa. Nên ta có quyền gọi y bằng những danh từ khinh bỉ nhất có thể. Nhưng tôn trọng nền văn hiến Trung Hoa, nên trong bài viết này, tôi sẽ cố kìm chế đến mức tối đa mỗi khi phải nhắc đến danh xưng của tên nghiệt súc, tên quái vật thế kỉ 15 này. Nói cho cùng kì lí, các hành vi của Minh Thành tổ đối với nước ta và dân tộc ta, là cả một sự thoái hóa trở về với thời kì dã man khi nhân loại còn chưa hình thành nhân cách. Tiếc thay, y lại là kẻ đứng đầu một dân tộc vĩ đại !

TỪ LÂU MINH THÀNH TỔ (CHU ĐỆ) ĐÃ Ủ MƯU XÂM LĂNG ĐẠI VIỆT

Trước khi xua quân xâm lược Việt Nam, Minh Thành tổ bố cáo lời “ nhân nghĩa” sau đây:

“ ... Chỉ bắt cha con họ Lê ( tức Hồ Qúi Li ) cùng đảng ác, còn bọn bị cưỡng bách và kẻ vô tội thì tha. Các ngươi hãy thể theo lòng trẫm chớ dưỡng giặc, chớ phá mồ mả, nhà cửa, chớ hại lúa má, chớ cướp của cải, chớ tước đoạt vợ con người, chớ giết kẻ đã hàng, nếu phạm một trong các tội này, thì dẫu có công cũng không được tha thứ...”( Minh thực lục Q1 tr 175).

Ta hãy theo dõi hành động của đội quân xâm lược này và sự chỉ đạo công cuộc xâm lăng của Minh Thành tổ, xem lời nói với việc làm của y dối trá đến trơ trẽn như thế nào?

Khi sai Thành quốc công Chu Năng làm Tổng binh, đem 800.000 quân vào xâm lược nước ta, Minh Thành tổ phát cho Chu Năng 1 cuốn sổ ghi chép nhiều thứ trong nhiệm vụ phaỉ làm. Minh Thành tổ khẩu dụ nhiều việc. Một trong những nhiệm vụ ấy có mục riêng ghi 10 điều quan trọng vào sổ tay để đối chiếu thực hiện hằng ngay.

TỘI ÁC DIỆT CHỦNG VĂN HÓA

Điều 3, trong 10 điều Minh Thành tổ căn dặn viên Tổng binh Chu Năng viết rất rõ ràng:” Sắc mệnh bọn Tổng binh quan Chinh di tướng quân Thành quốc công Chu Năng- Quân vào An Nam, trừ kinh sách, ván in kinh của Phật giáo, Đạo giáo là không tiêu hủy, còn tất cả các sách vở, ván in, văn tự, cho đến những loại sách trẻ con thôn quê mới học như”Thượng đại nhân, Khâu ất dĩ”, thì một mảnh giấy, một con chữ cũng thảy đều tiêu hủy hết ! Trong địa phận, phàm những bia khắc do người Trung Quốc dựng từ xưa thì giữ lại, còn nếu của An Nam dựng thì đều phải hủy hết, không để một chữ nào.”

Lại đây nữa, một bằng chứng:”Sắc cho Tổng binh quan ngày 20 tháng Chín năm Vĩnh lạc thứ 4 ( 1406 ) Những tính toán sách lược trù hoạch trước sau đã ủy cho Thành Quốc công các người khá kiểm tra xem xét lại kĩ lưỡng mà tùy nghi xử trí, không thể chấp nhất. Nay ban một đạo chế dụ tới, khá đem chế dụ đã lĩnh trước đây đưa chuyển về. Vậy sắc dụ.”

Việc này là Minh Thành tổ muốn phi tang tội ác. Rõ ràng, Chu Đệ biết chắc hành vi của y là phạm tội ác diệt chủng văn hóa.

Ngay bây giờ, nếu ta về chùa Đọi huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam, trên đỉnh ngọn núi Long Đọi cao hơn 80m, trong ngôi chùa cổ kính được tạo lập từ thời vua Lý Nhân tông (1072-1128), còn thấy một tấm bia đá cực to có độ dầy gần tới 40 cm, giặc Minh xô đổ rồi đập, nhưng bia to và quá dầy, nên chúng chỉ đập mẻ được một góc nhỏ phía dưới chân bia.

Và sau mấy tháng quân xâm lược vào cõi nước ta, Minh Thành tổ cảm như có điều gì bất an, y lại dụ:”Sắc Tổng binh quan Chinh di Hữu phó tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ, Hữu tham tướng Vân Dương bá Trần Húc, ngày 21 tháng 5 năm Vĩnh lạc thứ 5 (1407 )... Tiếp một việc từng nhiều lần dụ các ngươi, phàm tất cả các sách vở, ván in, văn tự, cho đến những loại sách trẻ con học như “Thượng đại nhân, Khâu ất dĩ”, từ một mảnh giấy, một con chữ cho đến những bia khắc ở đó tự dựng, nếu trông thấy lập tức đều phá hủy hết, không để tồn tại. Nay nghe rằng, trong quân thu được văn tự lại không lệnh cho quân lính đốt hủy ngay, mà tất kiểm tra xem xét xong rồi mới đốt. Nhưng quân sĩ phần đa đều không biết chữ, nếu cứ nhất nhất lệnh phải như vậy thì tất dẫn đến trong khi truyền đưa sẽ thất lạc mất nhiều. Nay, ngươi nên theo đúng như sắc trước, ra lệnh cho trong quân, cứ gặp tất cả các loại văn tự ở đó là lập tức được đốt hủy, chớ để còn lưu lại.” (Việt kiệu thư tr 157-158).

Sau khi cho quân triệt để tàn sát nền văn hóa Việt Nam, Minh Thành tổ liên tiếp ra Sắc, Dụ thu hồi các bản mà y thủ bút. Rõ ràng là y rất sợ những bằng chứng mà y gây án. Ngày 19 tháng 5 năm Vĩnh lạc thứ 5 (1407):” Nay An Nam đã định, khá đem những thủ sắc lần lượt gửi tới cùng giấy tờ ghi chép, cuốn sổ nhỏ vốn của Thành Quốc công đem đi theo, cũng như các công việc kế hoạch, Lưu Tuấn kiểm đếm rõ ràng, rồi lệnh cho một tên nội quan có mặt ở đó, cùng một nội quan được sai đi đem dần về triều. Vậy nay sắc ! Dụ này viết tiếp:” Trừ Chế, Dụ ra, tất cả các thủ sắc đưa tới, giấy tờ ghi chép cùng cuốn sổ nhỏ mà Thành Quốc công lĩnh đem đi, cũng như các công việc kế hoạch, phải kiểm kê đối chiếu tất cả, gói kín nộp về, không cho để sót một chữ. Nếu có một chữ nào rơi rớt thất lạc ở đó sẽ rất bất tiện. Hiện nay An Nam đã bình định xong mà chưa thấy nộp về.”(VKT tr 160)

Vậy là Chu Đệ biết rất rõ giá trị văn hóa của một dân tộc, nó là hồn cốt của chính dân tộc đó. Nếu muốn đồng hóa dân tộc Việt Nam, phải thu lấy hồn cốt của họ, rồi nhồi nhét văn hóa Hán vào đó. Để nếu có ai còn sống sót qua cuộc tàn sát này, thì họ chỉ còn mang xác Việt nhưng hồn lại là hồn Hoa. Đó là âm mưu thâm độc nhất của kẻ thù trong trường kì lịch sử với âm mưu Hán hóa dân tộc Việt Nam.

Còn cuốn sổ nhỏ mà Minh Thành tổ trao cho Thành Quốc công Chu Năng, trong đó y trao các nhiệm vụ gì cho viên Tổng binh này trước khi đem quân vào xâm lược nước ta mà y luôn nhắc để đòi lại? Những tội ác ấy chúng ta mới chỉ biết được một phần rất nhỏ do giặc hé lộ. Chu Năng là một nhân vật quan trọng trong hoàng gia và trong triều đình nhà Minh. Là người có tài cầm quân, nên được Minh Thành tổ trao cho sứ mệnh này. Y trao cho Chu Năng cuốn sổ nhỏ, và tất cả các nhiệm vụ Chu Năng phải thực thi đều được nhận qua khẩu dụ của Minh Thành tổ, và Chu Năng ghi chép không sót một điều nào. Một trong những nội dung đó có 10 điều như phần trên đã nêu.

Chẳng may khi qua Việt Nam mới được mấy tháng thì Chu Năng qua đời. Trương Phụ là phó tướng được tạm quyền thay Chu Năng, giữ quyền Tổng binh..

Vì âm mưu và tội ác của Minh Thành tổ nằm trong cuốn sổ nhỏ đó, nên y cuống quýt, luôn thảo Dụ thu hồi.

Trong Việt kiệu thư có đề cập một phần trong cuốn sổ nhỏ của Chu Năng, đó là 10 điều căn dặn các tướng của Chu Đệ trước khi đưa quân vào xâm lược Việt Nam.

Điều 1- Nói về sự thận trọng trong phép dùng binh.

Điều 2- Quân kéo vào An Nam, phàm những kho tàng cất trữ, cùng sổ sách về hộ khẩu, ruộng đất thuế khóa, binh giáp, địa đồ ghi chép về các quận huyện, đều lệnh cho Thượng thư Lưu Tuấn nắm giữ. Còn ngươi ( Chu Năng ) thì nắm chung đại lược.

Điều 3- Quân vào An Nam trừ kinh sách, ván in kinh của Phật giáo, là không tiêu hủy, còn tất cả các sách vở ván in, văn tự, cho đến những loại sách trẻ con thôn quê mới học như “Thượng đại nhân, Khâu ất dĩ “thì một mảnh giấy, một con chữ cũng thẩy đều tiêu hủy hết ! Trong địa phận, phàm những bia khắc do Trung Quốc dựng từ xưa thì giữ lại, còn nếu của An Nam dựng, khắc thì đều phá hủy hết, không để một chữ nào.

Điều 5- Tìm hỏi khắp cả trong nước, xem có những kẻ nào tinh tế thông đạt, giỏi mưu lược, cũng như gian trá quỉ quyệt, thảy đều lấy danh nghĩa chuộng tài mến đạo tiến cử về triều.

Điều 6- Các hạng thợ thuyền và nhạc công trong nước, đều đưa hết cùng cả gia quyến của họ về kinh sư.

Các điều 7-8-9 nói về những kẻ lộng ngôn phỉ báng đều chém hết. Và về việc hành binh đối phó với các sự cố dọc đường.

Điều 10- Nay sai Chu Khuyến, Trương Anh mang công văn của Bộ lễ sang An Nam đòi nộp vàng và voi. Kế này là để muốn làm giảm chí chiến đấu của chúng chứ chẳng phải thực ý. Lúc bọn Chu Khuyến sắp đi trẫm từng gặp mặt dụ bảo, lệnh đến đó chỉ ở lại 5 ngày. Nếu trong 5 ngày chúng không lo được đủ, thì cho phép có bao nhiêu tùy nộp trước bấy nhiêu, rồi sai người nộp cho đủ sau. Ngươi đợi bọn Chu Khuyến đi rồi thì cho đại quân cũng tiến theo sau. Nếu gặp được người sai tới nộp vàng, voi thì hãy bắt lấy mà tra hỏi tin tức. Nhưng chớ được để cho chúng biết người sai đi đã bị bắt...( Lễ cống phạt gồm 5 vạn lạng vàng và 100 con voi phải có đủ trong thời hạn 5 ngày ) ( Trích Việt kiệu thư từ tr 126- 129 của tác giả Lý Văn Phượng, người Việt dịch Châu Hải Đường )

TỘI ÁC HỦY DIỆT CÁC NGUỒN LƯC VỀ TRÍ THỨC VÀ CƯỚP VÉT SẠCH CÁC NGUỒN LỰC VỀ CHUYÊN MÔN, NGHỀ NGHIỆP...

Ngày 8 tháng 2 năm Vĩnh lạc thứ 5 (14/3/1407)

Sắc dụ quan Tổng binh chinh thảo An Nam Tân thành hầu Trương Phụ:”Khi quân chiếm được An Nam, hãy thăm dò rộng rãi khắp nước để tìm người tài đức, hoặc một điều hay, một nghề giỏi. Hãy dùng lễ để sai khiến, tìm cách đưa về kinh đô” (Minh thực lục Q1 tr201).

Nếu Giao Chỉ có thầy thuốc, thầy bói toán, nhạc công, kĩ viện, cùng thợ hương, thợ gạch, các hạng thợ thuyền, kỹ nghệ nhân...thì đưa hết cùng cả gia quyến về kinh.

Những thợ làm hương, làm gạch, bất luận trình độ cao thấp đều đưa hết cùng gia quyến về kinh. Ngoài ra, tất cả thợ thuyền kĩ nghệ cũng lần lượt đưa cùng cả gia quyến sang.

Những người có vóc dáng cao lớn, những người biết dùng súng đạn, những người giỏi lái thuyền, am hiểu đường biển, cũng như các hạng thợ săn bắt đều cho đưa cùng cả gia quyến sang.(VKT tr158)

Ngày 21 tháng 5, năm Vĩnh lạc thứ 5 (1407) nhắc thêm việc cho bọn Tổng binh quan Trương Phụ:

Thầy lang Giao Chỉ là Trần Động Huyền, cùng các học trò, đều phải lấy lễ mà đưa về kinh...(VKTtr158)

Khi trước đã nhiều lần sắc, dụ cho đem những kẻ tài mạo mưu trí, cùng thợ hương, thợ gạch, thợ ngói, các hạng kĩ nghệ, nhạc công, lần lượt đưa về kinh, mà đến nay vẫn chưa thấy một người nào sang, chẳng biết là cớ làm sao? Khá làm theo như sắc trước đã dụ mà cho đưa sang. Vậy nay sắc. (VKTtr159)

Ngày 21 tháng 6 năm Vĩnh lạc thứ 5 ( 25/7/1407) Sắc mệnh quan Tổng binh Tân Thành hầu Trương Phụ... Đất Giao Chỉ chắc có những người tài đức song toàn ẩn dật tại núi rừng, rành kinh điển văn hay học rộng, có tài hiền lương đúng đắn, nông dân hiếu đễ thông minh chính trực, kẻ thư lại có khả năng được việc, thông thạo sách vở, người luyện tập binh pháp vũ nghệ trí mưu, dung mạo khôi ngô cao lớn, ăn nói lưu loát, có sức vóc dũng cảm, kẻ biết thuật số âm dương, rành y dược chẩn mạch. Hãy hỏi han tìm cho được để đem về kinh dùng. (Minh thực lục Q1 tr 226 )

Sắc Tổng binh quan Chinh di Hữu phó tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ... Ngày 16 tháng 6 năm Vĩnh lạc thứ 5 (1407):

Nếu có các hạng thợ thuyền cùng tất cả những thợ nung đồ sứ cùng nhạc công, kĩ viện, các đầu mục hiền lương thì đều đưa hết về kinh. Các đầu mục hiền lương nếu có ai đã lưu lại nhậm dụng ở đó thì cũng sai sang chầu cùng với những sứ giả trước sau về kinh. Ngụy quan Thái trung đại phu Lê Sư Khải, Phan Hòa Phú, Thông nghị đại phu Phạm An Châu, Tạ Tề Phú, Phạm Hối, Thông phụng đại phu Đông Ngạn Dục, Thiếu trung đại phu Vương Tử Vân, Vương Nhữ Tương, Trần Lai, Phan Qúy Hựu, Gia nghị đại phu Trần Cung Phủ, Lê Đích, đại phu Lưu Quang Đình, hành nhân Nguyễn Dực, Vương A Lỗ, Nguyễn Tông Kiên,Trần Ngự, Ngô Ứng Thần, Phạm Sư Lang, Lê Hiền, Lê Đích, Tùy hành Nguyễn Ứng Nguyên, Đàm Tử Lượng cũng đều sai người đưa về kinh! Vậy sắc! (Những thân phận này nằm trong bộ máy của triều Hồ, gần như bị bắt sống hoặc ra hàng giặc hết) ( VKT tr164-165).

Vậy là không còn một thành phần nào về trí thức với mọi trình độ khác nhau, và mọi nghề nghiệp khác nhau từ tinh sảo đến thô sơ mà Minh Thành tổ không ra lệnh khua khoắng bắt cho bằng hết. Phá tan tiềm lực của cả một đất nước, tưởng không còn gì triệt để và thâm độc hơn. Vì vậy, sau 20 năm giặc chiếm đóng, khi quét sạch giặc ra khỏi bờ cõi, nhiều ngành nghề của ta không có khả năng khôi phục. Tiêu biểu là ngành gốm sứ Lý-Trần từ kiểu dáng đến mầu men coi như biến mất. Bởi cơ sở sản xuất bị giặc thiêu hủy, thợ giỏi đều bị chúng lùa hết về Yên Kinh.

TỘI ÁC DIỆT CHỦNG NÒI GIỐNG VIỆT TỘC TỪ ĐỜI THƯỜNG ĐẾN CHIẾN TRẬN, VƠ VÉT CỦA CẢI VÀNG BẠC CHÂU BÁU, THUẾ MÁ KHẮC NGHIỆT, ĐẨY NGƯỜI DÂN VÀO CON ĐƯỜNG CÙNG KHỔ.

Sắc Tổng binh quan Chinh di Hữu phó tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ...ngày 1 tháng 8 năm Vĩnh lạc thứ 5 (1407)

Trước trẫm đã lệnh cho các ngươi, phàm gặp những kẻ đối địch cùng chống lệnh không phục, thì nên giết chết. Trong nhà chúng nếu có những kẻ nhỏ tuổi thì thiến làm hoạn quan để tạm toàn tính mệnh cho. Nay nghe nói các ngươi đem cả những người vô tội đều nhất loạt thiến hoạn ... (VKT tr166).

Trước đây có dụ các ngươi phải đốt hết nhà cửa của chúng, nhưng nay lập quận, huyện, phàm tất cả nhà cửa không đốt phá, sau khi dẹp yên rồi, dùng để ở mà trấn giữ.” (VKT tr137)

Như phần trên đã nói, Minh Thành tổ ép nhà Hồ phải cống nạp 5 vạn lạng vàng và 100 thớt voi trong thời hạn 5 ngày. Đây là kế giả vờ như Minh Thành tổ đã nói với hạ cấp, mục đích là thu lấy của cải và tạo cho nhà Hồ sự chủ quan. Kẻ thù hung hiểm, làm sao lại có đủ 100 thớt voi đã thuần hóa trong 5 ngày, nếu y đòi 100 con gà may ra nhà Hồ thỏa mãn được cho giặc. Đã bảo đây là quỉ kế, y đã thú nhận với thuộc cấp.

Minh Thành tổ mượn luôn cớ này dấy binh. Y sai Thành quốc công Chu Năng giữ chức Tổng binh, Tây Bình hầu Mộc Thạnh, giữ chức Tả phó tướng quân, Tân Thành hầu Trương Phụ giữ chức Hữu phó tướng quân. Phong Thành hầu Lý Bân giữ chức Tả tham tướng, Vân Dương bá Trần Húc giữ chức Hữu tham tướng… phao đem 80 vạn binh xâm lược nước ta.

Tháng 4 năm 1406, trước khi xuất chinh, người Minh ban mũ áo cho tên phản quốc Bùi Bá Kỳ, và khiến y dẫn đường cho quân Minh vào xâm lược Tổ quốc mình.

Minh Thành tổ bố cáo giả vờ cho lũ tướng Nam chinh, nào là quân vào cõi nước An Nam:’’ Chỉ bắt cha con họ Lê ( tức Hồ Qúi Li ) cùng đảng ác, còn bọn bị cưỡng bách và kẻ vô tội thì tha. Các ngươi hãy thể theo lòng Trẫm chớ dưỡng giặc, chớ phá mồ mả, nhà cửa, chớ hại lúa má, chớ cướp của cải, chớ tước đoạt vợ con người, chớ giết kẻ hàng, nếu phạm một trong những lỗi này, thì dù có công cũng không được tha thứ, các ngươi phải cẩn thận.’’( Minh thực lục q1 tr175 ). Nào là không được đánh giết bừa bãi, nào là phải bảo vệ và chu cấp cho người già và trẻ thơ, nào là phải tìm các bậc tài năng, hiền đức cho quan chức, cấp bổng lộc… Thật ra đây là chiêu lừa dụ bọn tay sai bán nước người Việt. Chứ tướng lĩnh nhà Minh đều hiểu ý bề trên, nên chúng đều làm ngược lại với lời DỤ của Minh Thành tổ mà không hề có kẻ nào bị trách phạt. Ngay cả việc chúng thiến hoạn trẻ em là con trai vô tội, dường như là việc Minh Thành tổ thầm khuyến khích.

Và đây là bộ mặt thật của tên tội phạm chiến tranh Minh Thành tổ: ‘’Quân vào An Nam đánh chiếm các quận ấp, phàm tịch thu được thư tịch, bản đồ, đều không được hủy.’’ (Tức là phải cướp lấy đem về Yên Kinh ). ( Minh thực lục q1, tr 181 ). Sau khi thấy việc cướp thư tịch đã ổn, y ra lệnh thiêu hủy những gì còn lại. Dụ rằng - Ta nghe nói các ngươi lấy được thư tịch do người An Nam viết chưa chịu thiêu hủy mà còn chần chừ phân loại. Nay ta truyền, những thư tịch của bản quốc ( tức là sách truyện do người Tầu viết ) thì giữ lại đưa về Yên Kinh, còn tất cả những thư tịch do người An Nam trứ tác, thu gom được phải thiêu hủy ngay lập tức. Các bi ký, hoành phi, câu đối có liên quan đến lịch sử nước họ cũng phải thiêu hủy.

Sau đó, tên tội phạm này ra lệnh cho quan quân dưới quyền phải nộp lại các sắc, dụ y đã ban ra, nhằm che giấu tội ác.

Vậy là việc hủy diệt văn hóa nước ta, người Tầu đã có chủ mưu.

Và đây nữa, một đạo dụ khác của y – Sắc dụ quan Tổng binh chinh thảo An Nam Tân Thành hầu Trương Phụ:’’ Khi quân chiếm được An Nam hãy thăm dò rộng rãi khắp nước để tìm người tài đức, hoặc có một điều hay, một nghề giỏi, hãy tìm cách đưa về kinh đô để sai khiến.’’( Thời điểm này là tháng 3 năm 1407, Trương Phụ thay Chu Năng lãnh chức Tổng binh, bởi Chu Năng bị chết từ tháng 11 năm 1406 ). Thế là rõ mưu mô hiểm độc của Minh Thành tổ. Sau khi y hoàn thành ý đồ cướp bóc và thiêu hủy văn hóa, lịch sử của nước ta, tiến thêm một bước nữa là y vơ vét người tài của ta. Đây là mưu toan cực kỳ hiểm độc, chúng bắt không chỉ là những bậc kỳ tài như kiến trúc sư vĩ đại Nguyễn An ( Tác giả xây dựng Cố cung và Thiên An môn ). Hồ Nguyên Trừng chuyên gia chế tạo vũ khí vào loại siêu hạng của nhân loại nửa đầu thế kỷ 15. Ông là tác giả đại bác bắn tầm xa và nạp đạn thay vì nhồi thuốc như những cỗ đại bác ta thấy bầy la liệt tại chân cột cờ thành nội Huế. Ông giỏi tới mức, dù thân phận là một tù binh, nhưng nhà Minh phải trọng dụng và cất nhắc ông giữ chức Thượng thư Bộ công. Ngoài những tài năng siêu việt thì người có học hành chữ nghĩa cũng bị chúng bắt đưa về Tầu. Rồi người có nghề giỏi, ngay cả không nghề nghiệp nhưng có điều gì mới lạ ( tức là mới có ý tưởng ) cũng bị chúng thâu gom hết. Điều này lí giải vì sao nghề gốm sứ các đời Lý- Trần phát triển rực rỡ vậy mà sau khi giặc Minh xâm lược và chiếm đóng chỉ có 20 năm khiến nó bị triệt tiêu.

Đáp lại sắc dụ của Minh Thành tổ: ‘’Chớ hại lúa má, chớ cướp của cải…’’Hiểu ý bề trên ( tức là phải làm ngược lại điều Thiên tử ban dụ ), Tổng binh Trương Phụ hết sức mẫn cán trong việc cướp bóc, vơ vét và đã có sớ tâu về Yên Kinh . Lập tức Minh Thành tổ vừa biểu giương, vừa ngầm ra lệnh phải triệt để cướp bóc lương thực nhiều hơn nữa. Bởi lương thực không chỉ nuôi quân giặc tức thời mà còn giúp giặc có khả năng ở lại lâu dài trên chiến trường xa. Dụ ngày 16 tháng 2 năm 1407 có đoạn: ‘’Nghe tin ngươi đánh được Đông Đô, tịch thu ( thực chất là cướp ) nhiều lương thực đủ cho quân dùng. Hãy tiết kiệm, chớ lãng phí! Ra lệnh đình chỉ việc Quảng Tây vận lương, nếu đang vận chuyển trên đường thì chuyển đến thành, đồn trên đường đi đến gần nhất, trữ tại đó, chiếu theo pháp lệnh canh gác. Cho những quân dân lo việc vận tải trở về.’’ (Minh thực lục tr 199 tập 1 ).

Cướp của và giết người là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của đội quân xâm lược nhà Minh, mà Minh Thành tổ đã căn dặn rất kĩ lưỡng bọn tướng lĩnh đầu sỏ trước khi xuất chinh. Ngoài khẩu dụ, y còn bắt viên Tổng binh phải ghi các công việc phải làm vào một cuốn sổ. Tội ác diệt chủng của giặc được thể hiện khắp mọi nơi, từ mặt trận đến xóm thôn yên ả. Khi tên tội phạm này nói điều nhân nghĩa, thì tướng lĩnh dưới quyền đều hiểu phải làm ngược lại thánh chỉ mới trúng ý bề trên. Ví như:” Dụ cho quân chúng không được chém giết bừa bãi, không được giết kẻ đã đầu hàng.” Thì đây là câu trả lời:’’ Đô đốc Liễu Thăng hăng hái đánh thuyền giặc tại Giao Thuỷ, khiến giặc đại bại. Tịch thu hơn 10 thuyền, giết tướng giặc là Nguyễn Nhân Tử, Nguyễn Lỗi, Nguyễn Liệt, chém hơn một vạn đầu, bắt sống tướng giặc Hoàng Thế Cương, Đồng Văn Kiệt, Phùng Tông Thực, Mạc Thiết, Phạm Hài, Nguyễn Lợi hơn một trăm tên, tất cả đều bị chém; riêng bọn giặc chết trôi không kể xiết…’’ ( Minh thực lục tr 200 tập 1).

Tội ác giặc Minh gây ra với dân ta, nếu bứt hết lá rừng cũng không ghi hết. Lại đây nữa: ‘’...Liễu Thăng dùng thuỷ binh đánh chéo, giặc thua to, bắt sống thượng thư Bộ công Nguyễn Hy Chu, chém Dực vệ tướng quân Hồ Xá cùng tướng tốt vài vạn người, khiến nước sông trở nên đỏ vì máu…’’( Minh thực lục tr 203 tập 1 ). Đây là giặc tự ghi tội ác của chúng đối với dân ta vào sách sử của chính nó. Thực ra, tội ác của giặc rải rác khắp trong cả nước không thể nào mà ghi chép xuể. Ngày nay về Sài Sơn, tại hang Cắc Cớ phía sau chùa Thầy, trong lòng hang vẫn còn hàng đống xương người do giặc Minh dồn cả vạn dân lèn chật hang rồi hun chết. Qua 600 năm, xương tuy mủn mục nhưng vẫn còn ngổn ngang. Ngay cửa hang đã thấy mùi hôi lạnh từ trong phả ra. Dân trong vùng và khách lại qua, ít ai dám ngó sâu vào trong.

Sách Việt Nam sử lược của cụ Trần Trọng Kim, chép về tội ác giặc Minh như sau:’’ Trương Phụ thắng trận, đi đến đâu giết hại quân dân, và làm những điều tàn bạo ghê gớm như là: xếp người (đã giết) thành núi, hoặc rút ruột treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy dầu. Còn những người An Nam ai tòng phục nhà Minh mà giết được nhiều người bản quốc thì được thưởng cho làm quan. Thật bấy giờ tha hồ cho bọn hung ác đắc chí! ‘’(VNSL tr 186)

Chỉ trong một xã, giặc cũng gây tội ác khủng khiếp. Minh thực lục chép:’’Trương Phụ cho vây xã Nghi Dương, bọn giặc ( tức dân ta ) chống cự, quan quân phấn khởi bắn tên đá như mưa, khiến giặc thua to. Chém hơn 4.500 thủ cấp, chết trôi nhiều; bắt sống Tướng quân Phạm Chi, Vũ Lâm Vệ Tướng quân Trần Nguyên Khánh, Trần Phủ, Nguyễn Nhân Trụ hơn 2.000 tên bèn chém, liệm xác chôn thành bãi tha ma để thị chúng” (Tr 285 Minh thực lục q 1). Đây là giặc nói thời gian vào 12 tháng 2 năm 1410, tức là phong trào kháng chiến chống giặc vẫn đang tiếp diễn.

Ngoài việc đàn áp cực kì man rợ phong trào kháng chiến của dân ta, chúng bắt tay luôn vào việc vơ vét. Vẫn theo Minh thực lục chép:”TânThành hầu Trương Phụ bình định Giao Chỉ… chiêu an 3.120.000 người, bắt được dân Man ( giặc ngạo mạn gọi dân tộc ta là Nam Man, tức man di mọi rợ ) 2.087.500 người, trữ lương ( cướp được thu gom lại ) 1.360 vạn thạch; voi, ngựa, trâu, bò cộng 235. 900 con, 8.677 chiếc thuyền, hơn 2.539.850 vũ khí…’’(MTL tr 251 q1). Đương nhiên giặc vơ vét được của dân ta, chúng đều đưa về Tàu hết. Đây mới là một phần nhỏ do giặc thống kê. Qua phần của nổi, giặc bắt tay ngay vào việc moi móc của chìm. Sau 3 năm giặc cướp nước ta, ngày 26 tháng 9 năm Vĩnh lạc thứ 7 (1409 ) ‘’Đặt Cục khai thác vàng trấn Thái Nguyên. Cục khai thác vàng trấn Gia Hưng; Cục khai thác vàng trấn Quảng Oai thuộc châu Quảng Oai”.

Minh Thành tổ là một kẻ giảo quyệt, y biết phương Bắc đã bao phen chinh chiến và chiếm đóng lâu dài trên mảnh đất phương Nam này mà chúng vẫn không thể đồng hoá được người Nam. Âý là bởi, người Nam kiên định giữ gìn phong tục, từ ngôn ngữ đến y phục, cũng như các tục ăn ở, giỗ tết, hội hè, ma chay, cưới hỏi... Cả việc thờ cúng cùng tín ngưỡng, tôn giáo cũng khác với mọi tập tục của kẻ thống trị.

Ngoài việc giết người, cướp của, thu nhặt sách vở, đốt phá đền đài, Minh Thành tổ còn sai quân chúng săn lùng những người tài đức của nước ta, nhằm tận diệt khả năng hồi sinh của nước ta, sau các cuộc tàn phá và tàn sát man rợ của đội quân khát máu.

Cảm thấy việc bắt được các tài năng như Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn An vẫn chưa là đủ. Vấn đề là phải tiêu diệt hết mọi sinh lực hiện có và tiềm ẩn của nước ta, Minh Thành tổ tiến thêm một bước nữa. Ngày 25 tháng 7 năm 1407; Sắc dụ quan Tổng binh Tân thành hầu Trương Phụ, Tả phó tướng Tướng quân Tây bình hầu Mộc Thạnh, Thượng thư Bộ binh Lưu Tuấn rằng:’’Đất Giao Chỉ chắc có nhiều người tài đức song toàn ẩn dật tại núi rừng, rành kinh điển văn hay học rộng, có tài hiền lương đúng đắn; nông dân hiếu đễ thông minh chính trực; kẻ thư lại có khả năng được việc; thông thạo sách vở; người luyện tập binh pháp vũ nghệ trí mưu; người dung mạo khôi ngô cao lớn, ăn nói lưu loát, có sức vóc dũng cảm; kẻ biết thuật số âm dương, rành y dược chẩn mạch. Hãy hỏi han tìm cho được… để mang về kinh dùng.’’( Minh thực lục tr226 q1).

Vậy là không chỉ người có tài văn học, thông thạo binh thư, thuật số. Cho đến thầy thuốc, thầy cúng, người nông dân, người cao to đẹp trai v. v... đều bắt cho bằng hết đem về Tầu. Và tên sói già này chỉ điểm cho quân nó phải lùng sục tận rừng núi heo hút để tìm bắt cho bằng được đem về Yên Kinh ( tức Bắc Kinh ).

Sau các vụ tàn sát dân ta cực kỳ man rợ, thì chúng săn tìm để tước đoạt văn hoá phi vật thể như các tài liệu về lịch sử, pháp luật, văn chương... Và khi thấy sự cướp bóc đó tạm đủ thì những gì còn lại chúng ra lệnh thiêu huỷ, kế cả đền đài, chùa quán, dinh thự, hoành phi câu đối, bi ký v. v... Tiếp đó là bắt bớ những người có học thức, có mưu thuật, có chuyên môn về mọi mặt trong đời sống. Thậm chí cả thầy bói, thầy cúng ... nghĩa là những gì có liên quan đến tư duy và khai trí đối với dân ta, giới cầm quyền Trung Hoa đều ra lệnh thủ tiêu hoặc vét sạch.

Tiếp đó là chúng tẩy não dân ta để đồng hoá. Về tẩy não, theo điều thứ 3 lời tâu của tên giặc gọi là Tả Tham chính Lưu Bản có nội dung:’’ Nay xin tuyển các lão thành có học, theo khuôn khổ sư phạm, dạy các sĩ tử biết lễ nghĩa của Trung Quốc, biến đổi tục Di, ngõ hầu sau này đào tạo được người cho nhà nước dùng.’’ ( Minh thực lục q 1 tr 301).

Nghe bốn từ:’’ Biến đổi tục Di’’ tưởng như không có gì. Nhưng đây là cả một mưu toan hiểm độc. Nên hiểu, phong tục, tập quán của một dân tộc, chính là hồn cốt của dân tộc đó. Sau khi nó xoá hết tập tính của người Việt, thì nó dạy cho đám nho sinh người Việt ‘’ biết lễ nghĩa của Trung Quốc.’’Điều đó có nghĩa là giặc mưu toan biến người Việt Nam ta thành một loại người mất gốc – Xác Việt hồn Hoa. Điều này chúng đã thành công với người Mãn. Chúng cũng đang làm như vậy với người Mông, người Tạng, người Duy- ngô – nhĩ.

Đại Việt sử ký toàn thư có chép rải rác về lòng tham và tội ác của giặc Minh như sau: ‘’Hoàng Phúc nước Minh truyền bảo cho các phủ, châu, huyện dựng văn miếu và các đàn thờ Xã tắc, Phong văn để tuế thời tế lễ. ( tr 794 tập 1 ). Nghĩa là chúng bắt dân ta thờ các thần của Trung Quốc. Đây chính là quốc sách ‘’ biến đổi tục Di’’ của giặc được cụ thể hoá.

Toàn thư chép tiếp:’’ Nhà Minh cấm con trai con gái không được cắt tóc; đàn bà con gái thì mặc áo ngắn quần dài, hoà theo phong tục phương Bắc.’’Ngoài ra, các bé trai còn bị giặc thiến, hoạn.’’

’Nhà Minh bắt khai và trưng lượng ruộng tơ bãi ( ruộng trồng dâu chăn tằm), mỗi hộ 1 mẫu phải khai làm 3 mẫu. Đến sau xét hộ khẩu hằng năm tăng số ruộng lên gấp 3 lần số thực có để thu thuế. Mỗi mẫu thu 5 thăng thóc, đất bãi mỗi hộ 1 mẫu thu

1 lạng tơ, mỗi một cân tơ phải dệt 1 tấm lụa.’’

’Nhà Minh khai các xưởng mỏ vàng bạc, đem phu đãi lấy, và bắt voi trắng, mò trân châu, đánh thuế nặng, bóc lột nhiều, dân không lấy gì mà sống được. Trường muối ở ven biển thì cấm dân bán riêng, đều sai nội quan ( hoạn quan ) coi giữ.’’

‘’Tháng 9, Hoàng Phúc nước Minh sai quan áp lộ đưa đích thân những bọn nho học, thầy thuốc, thầy tướng số, thầy tăng, đạo của các phủ, châu, huyện về Yên Kinh.’’ ( Toàn thư tr 794-795 q1 ).

Về các việc như Toàn thư nói thì trong Việt Nam sử lược Trần Trọng Kim nói gọn hơn. Đại khái, việc đồng hoá Việt Nam sử lược chép:’’ Bọn Hoàng Phúc ở lại sửa sang các việc trong nước, để khiến cho người An Nam đồng hoá với người Tàu. Lập ra đền miếu bắt người mình cúng tế theo tục bên Tàu, rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, việc gì cũng bắt theo như người Tàu cả. Còn cái gì là di tích của nước mình như là sách vở thì thu nhặt đem về Tàu hết sạch.’’ ( Việt Nam sử lược tr 186 ).

Sử gia Trần Trọng Kim cũng trích lại của Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú về một số đầu sách quí như lịch sử, luật pháp, văn chương, binh thư v.v... Thật ra đây cũng chỉ là con số tượng trưng chứ sức người nhớ sao cho thấu các tư liệu ghi chép và trứ tác của tiền nhân tích tụ cả ngàn năm trước. Trong đó có những loại cực kỳ quí báu như:

- Bộ Hình thư 3 quyển của vua Lý Thái tông.

- Bộ Hình luật của vua Trần Thái tông.

- Quốc triều thông lệ 10 quyển của vua Trần Thái tông.

- Đại Việt sử ký toàn thư 30 quyển do Lê Văn Hưu soạn.

-Binh gia yếu lược 1 bộ của Trần Hưng Dạo.

-Vạn Kiếp tông bí truyền thư 1 bộ của Trần Hưng Đạo. V. v...

Nếu tính cả sách văn chương, kinh bổn tôn giáo và trứ tác của các nhà thì nhiều vô số kể. Đặc biệt hai bộ binh thư của Trần Hưng Đạo, đã góp phần quyết định vào đại thắng trong hai cuộc chiến tranh chống quân xâm lược nhà Nguyên ( 1285 & 1288 ).

Một mặt chúng thực thi chính sách đồng hoá dân tộc ta; mặt khác chúng thủ tiêu toàn bộ lịch sử và nền văn hiến của nước ta. Khiến chúng ta bị khuyết một mảng lịch sử khá quan trọng từ thể kỷ 14 trở về trước, tức là từ nhà Trần trở về thời Hùng Vương và cả thời cổ xưa, được lịch sử ghi lại theo truyền thuyết.

Bởi vậy, khi soạn bộ Quốc sử gọi là “Đại Việt sử kí toàn thư,”sử thần Ngô Sĩ Liên trong biểu dâng sách lên vua Lê Thánh tông, ông viết:” Giáo mác đầy đường, đâu chẳng là giặc Minh cuồng bạo, sách vở cả nước, đều trở thành một đống tro tàn. Muốn tìm sự tích sót lại trong than, trong tro, khó tránh thị phi về lầm chữ hợi chữ thỉ.”

Trong chữ Hán chữ hợi chữ thỉ, tự dạng hao hao giống nhau, ý Ngô Sĩ Liên muốn nói, độ chính xác của bộ sử này không cao, vì không còn tư liệu để soạn sử. Đó chính là tội ác hủy diệt văn hóa nước ta do Minh Thành tổ gây nên (TTtr20).

Huỷ diệt văn hoá là một tội ác ngang với tội diệt chủng và hơn thế nữa. Vậy mà người mình nhiều kẻ, kể cả bọn người có học vấn, vẫn cứ nhơn nhơn làm thân, thậm chí làm tay sai cho kẻ rắp tâm huỷ diệt nòi giống mình, thủ tiêu cả Tổ quốc mình. Loại này, thật sự chúng còn thua cả loài cầm thú.

Âm mưu này của nhà cầm quyền Trung Hoa đối với dân tộc ta, đất nước ta từ cổ đại tới nay chưa hề có mảy may thay đổi.

Điều này được chứng minh qua cuộc xâm lược của giặc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, do tên đầu sỏ Đặng Tiểu Bình, xua hơn 600.000 quân vào xâm chiếm lãnh thổ 6 tỉnh biên giới nước ta ngày 17 tháng 2 năm 1979. Giặc đi tới đâu thì nơi đó thành bình địa. Chúng vơ vét đủ mọi thứ đáng giá, còn những gì không đáng giá nhưng thuộc về đời sống con người, chúng thiêu huỷ sạch sành sanh. Và chúng tàn sát dân ta cũng tàn bạo, cũng man rợ chẳng khác giặc Minh đầu thế kỷ 15. Nghĩa là giặc thực hiện chính sách cố hữu của Trung Hoa đối với Việt Nam mỗi khi có cuộc xâm lược, tức là: Giết sạch - Cướp sạch - Đốt phá sạch mà binh pháp truyền thống của Trung Hoa gọi là ‘’ Tam quang tảo đãng’’.

Như ta thấy, ba thành phố: Lạng Sơn - Lao Kai - Cao Bằng, sau khi giặc rút chỉ còn lại một bãi đất cháy nham nhở và mìn gài chi chít ( Theo hồi kí thú tội của một viên tướng giặc, thì trước khi rút lui, chúng còn gài lại tới hơn 20 triệu quả mìn ). Trên đường rút chạy những gì hiện ra trước mắt chúng như cầu cống, cột điện chúng dùng thuốc nổ san phẳng hết. Ngay những chiếc cống thoát nước ven đường, đường kính chỉ một gang tay, chúng cũng gài thuốc nổ đánh sập.

Khi bọn đầu sỏ ở Bắc Kinh tuyên bố rút quân, nhằm tránh đòn trừng phạt của quân ta. Vì vậy, chúng ta không truy đuổi giặc nữa. Nhưng trên đường rút chạy qua thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo ngoại thành tỉnh lỵ Cao Bằng, chúng sục vào trong làng thấy một nhóm thuần các cụ bà, phụ nữ và trẻ em đang bú mẹ, túm tụm nép bên bụi tre và giếng nước trong xóm. Lũ chó sói này liền bắn súng thị uy rồi ra tay tàn sát. Giết chết toàn bộ 45 người gồm già trẻ rồi quăng xác xuống chiếc giếng ăn nước của cả xóm. Số người nhiều mà giếng nhỏ, chúng lèn chặt rồi lấy những chiếc cối đá và trục đá đè lên xác người. Khi giặc rút đi, dân làng vớt bà con lên thấy thi thể mọi người bị đập chết bằng các vật rắn như vồ, cuốc, báng súng, lưỡi lê. Cách giết người man rợ như thời Trung cổ, khiến ta nhớ đến Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa đã huấn luyện cho bè lũ Polpot giết gần 3 triệu đồng bào Khơ-me của chúng. Và khi chúng tràn qua các tỉnh biên giới phía Nam của ta, chúng cũng thực thi cách giết đồng bào ta theo kiểu Trung Hoa hiện đại này.

Ngày nay qua Tổng Chúp, ta còn thấy tấm bia ghi tội ác giặc bành trướng Trung Hoa bên bụi tre xanh um tùm. Lẽ ra, nơi đây phải có tượng đài ghi lại thảm hoạ này, và tội ác trời không dung đất không tha của bè lũ tội phạm chiến tranh Đặng Tiểu Bình. Cũng như trên đỉnh núi Đọi huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam có ngôi chùa được dựng từ đời Lý Nhân tông. Năm 1407 giặc Minh leo lên đốt chùa, đập tượng Phật, đập cả tấm bia khổng lồ, nhưng bia đá quá dầy, chúng chỉ đập bể được một góc phía chân bia. Tấm bia đó ngày nay vẫn còn, lẽ ra phải có một tấm bia khác, ghi tội ác ‘’diệt chủng văn hoá’’ của tên tội phạm chiến tranh Minh Thành tổ tại đây.

Tiếc thay người ta chỉ đua nhau dựng những tượng đài vô cảm tiêu tốn cả trăm tỉ, ngàn tỉ đồng mà lãng quên tội ác của quân xâm lược xuyên suốt lịch sử mấy ngàn năm, hòng thủ tiêu nòi giống Việt Nam ta, nhằm chiếm trọn đất đai sông núi của ta.

Thậm chí không ít người ( bại não ) vẫn còn tin vào sự dụ dỗ, phỉnh lừa của nhà cầm quyền Trung Quốc như:

Láng giềng hữu nghị,

Hợp tác toàn diện.

Ổn định lâu dài,

Hướng tới tương lai.

Nhân dân Việt Nam không mù quáng để nhà cầm quyền Trung Hoa phỉnh lừa mãi, mà căn cứ vào cách hành xử của họ từ mấy ngàn năm trước tới tận ngày nay, thấy rõ bản chất tàn ác, lừa phỉnh của họ vẫn ngày một tham tàn hơn, bạo ngược hơn, tráo trở hơn và thâm độc hơn, nguy hiểm hơn, nên đã sửa lại bài tán của họ cho thật đúng với bản chất của họ, cách hành xử của họ đã và đang diễn ra như sau:

Láng giềng hiểm độc

Cướp đất toàn diện

Lấn biển lâu dài

Thôn tính tương lai

Hãy đề cao cảnh giác với phương Bắc !

Cảnh giác mọi mặt, mọi cấp độ !

Cảnh giác triệt để !

Cảnh giác cả trong giấc ngủ, cảnh giác cả trong mơ với phương Bắc vẫn chưa là đủ !

Tuy nhiên, vẫn cần đoàn kết hữu nghị với nhân dân Trung Hoa. Vẫn cần giao dịch kinh tế sâu rộng với nền kinh tế năng động của Trung Hoa. Nhưng phải cảnh giác, không để bị lừa như Đường tầu điện Hà Nội- Hà Đông, nhà máy xi măng Ninh Bình, Nhà máy hóa chất Đình Vũ Hải Phòng, Nhà máy giấy Hậu Giang, các nhà máy nhiệt điện chạy than tại Bình Thuận và hàng loạt nhà máy đường, nhà máy xi măng lò đứng tại các tỉnh biên giới trước đó, thuần là những loại công nghệ siêu lạc hậu, siêu ô nhiễm, đã bị thế giới cấm từ lâu. Đây là loại dự án làm nghèo đất nước. Tuy vậy, để những loại công nghệ này lọt được vào trong nước, hẳn phải có bọn người có quyền thế tiếp tay đắc lực. Ví như nhà máy luyện thép Formosa Hà Tĩnh, nếu không có bí thư Tỉnh ủy Võ Kim Cự đứng ra quan hệ và lo lót, thì sao nó có cửa để vào.

Trở lại với điều mà chúng ta đang quan tâm. Muốn nói gì thì nói, ta vẫn phải chung sống với người hàng xóm xấu bụng. Ta vẫn phải tồn tại với tư thế ngửng cao đầu. Muốn thế, ta phải mạnh, phải giầu. Nhiều người đặt câu hỏi:- “Làm thế nào để quốc gia có thể giầu mạnh đây?” Câu trả lời hoàn toàn nằm trong quá khứ. Lịch sử dân tộc là một mỏ kim cương khổng lồ đã kết tinh ròng, mà chúng ta cứ ngó nhìn chứ chưa chịu khai đào. Nhà Lý và nhà Trần là cả núi kinh nghiệm, là đỉnh cao chói lọi, vượt trên tầm cao của nhân loại, của mọi thời đại.

Hãy dũng cảm trở về với kinh nghiệm của chính Tổ tiên mình, chúng ta sẽ tìm thấy ánh sáng soi đường, không những thế, còn tìm thấy cả chiếc thang dẫn lối lên Thiên đường. Chẳng tin, các bạn thử hỏi môt sử gia danh tiếng người Pháp xem, ông Fernand Braudel (1902-1985) ấy, bằng trải nghiệm của mình, ông từng viết:”Dân tộc nào biết khai thác kinh nghiệm lịch sử từ chính dân tộc mình, dân tộc đó sẽ có trí thông minh và sức mạnh gấp đôi.”

Hoặc như học giả Kim Định cũng từng nói về chủ đề này:” Học cổ không phải là lặp lại những dữ kiện lịch sử lấy ra ở một thế giới đã chết, nhưng làm nảy ra những biểu tượng có khả năng hiện thực được lý tưởng ngày nay của chúng ta.”(VLTN tr9)

Hoàn thiện bài khảo cứu này hồi 16g30

Ngày 7/9/2024 khi siêu bão Yagi đang tàn phá Hà Nội.