Bút Tre tên thật là Đặng Văn Đăng. Sinh ngày 23/8/1911, tại xã Đồng Lương, Cẩm Khê, Phú Thọ. Huân chương chống Pháp hạng III, Huân chương chống Mỹ hạng II. Huy hiệu 4o năm tuôỉ Đảng.
Trước năm 1945 dạy học ở Tuyên Quang, có truyện dài kỳ đăng trên trang Tiểu thuyết thứ 7 của tờ Đông Pháp, bút danh Lục Y Lang. Tháng 6 năm 1946 trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương - Đảng Cộng sản Việt Nam sau này. Từ 1947 đến 1955 công tác Đảng và Văn hoá tại Phú Thọ. Năm 1956, thư ký cho thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ung Văn Khiêm. Năm 1960, Trưởng phòng Thông tin Uỷ ban hành chính tỉnh uỷ Phú Thọ. Năm 1962, Trưởng ty Văn hoá Phú Thọ. Năm 1968, phó ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Phú Thọ. Năm 1970, nghỉ hưu. Bút Tre Đặng Văn Đăng mất ngày 18/5/1987 trong thanh bần tại quê nhà. Tác phẩm đã xuất bản: Rừng cọ đồi chè ( Ty Văn hoá TT Phú Thọ xuất bản 1961) Phú Thọ lớn lên ( Ty Văn hoá TT Phú Thọ xuất bản- 1963) Sông Lô sông Chảy ( Ty Văn hoá TT Phú Thọ xuất bản-1961) Đồng Tâm thắm thịt thay da ( Ty Văn hoá TT Phú Thọ xuất bản 1963). Một ngày của Phú Thọ ( Ty Văn hoá TT Phú Thọ xuất bản1961 ) Quê hương Phú Thọ ( Ty Văn hoá TT Phú Thọ xuất bản năm 1961)....Và hơn nghìn trang bản thảo chưa kịp ra sách.
-----------------
Những năm cuối cấp III, khi tôi tập tọe làm thơ viết văn, thì một người trong họ làm giáo viên cấp I đã choè môi bảo: Thơ phú không khéo lại là thơ Bút Tre mất thôi. Tôi không hiểu thơ Bút Tre là thơ gì. Tôi gặng hỏi thì người họ hàng ấy cao đạo phẩy tay bỏ đi.
Ấm ức, nhưng tôi biết hỏi ai khi ở một nơi núi rừng vây quanh của khu khẩn hoang, cách huyện lỵ cả buổi cuốc bộ. Rồi sau tôi đi lính, trong giờ nghỉ giải lao tập xạ kích, viên thượng uý vốn tổng động viên từ trường Đại học Tổng hợp Văn vừa về quê cưới vợ, nằm đè trên đám cỏ tế ngửa mặt lên trời dưới tán cọ chẹp miệng ê a: Anh đi chiến đấu Pờ lây/ cu dài dằng dặc biết ngày nào ra. ...Hoan hô anh Tạ Đình Đề/ Trước đi theo giặc sau về với ta...Hoan hô bà Nguyễn Thị Bình/ Đàn bà ngồi với ông Chinh ông Đồng...
Tức thì cả đám lính mới oạc miệng cười sặc, cười đau cơ bụng. Nghe xong một lúc lâu, tôi khoái trá lẩm nhẩm đọc thầm lại câu thơ vừa lỏm được ấy tự nhiên tôi nấc lên trận cười nữa. Viên thượng uý tưng tửng vỗ bụng đọc tiếp: Chị em du kích tài thay/ bắn máy bay Mỹ rơi ngay cửa mình. Hỡi anh đang tập bắn bia/ sao anh cứ ngắm về phìa chúng em...
Những năm cuối thập kỷ bảy mươi của thế kỷ hai mươi cả nước rùng mình xanh xao thiếu đói và thấp thỏm trận mạc biên giới, thì cảm khoái do trận cười khi nghe những câu thơ ngộ nghĩnh, đối với đám lính tò te chúng tôi như một liều thuốc bổ cho sức khoẻ và cả sự lạc quan chốc lát mà những ngày đầu quân ngũ căng thẳng, mỏi mệt dẫu kiếm tìm cũng không có được.
Huy động hết can đảm, đúng là vậy, bởi binh nhì trong đơn vị huấn luyện so với viên thượng uý thì cũng như thượng uý so với đại tướng Tổng tư lệnh, tôi mới dám hỏi viên sĩ quan rằng ai đã sáng tác những câu thơ đặc biệt ấy.
Viên sĩ quan nhỏm dậy, nhìn tôi xa lạ rồi hất hàm.
- Phú Thọ mà không biết Bút Tre thì nghĩa là làm sao. Lạc hậu chậm tiến bộ là phải...
Trong tôi vụt sáng tia ký ức. Thì ra sự cảnh báo của người họ hàng năm xưa về thứ thơ Bút Tre là có thực.
- Thưa thủ trưởng, Bút Tre là ai ạ?
Ngần ngừ chau mày hồi lâu, thủ trưởng đáp:
- Tất nhiên là nhà thơ ...là..là...là..rất không bình thường. Ông ta có lẽ là thiên tài mà cũng có thể là một thứ vớ vẩn nào đó. Không, Bút Tre là thiên tài thật đấy, hiếm có ai lại biến mọi thú nghiêm túc đạo mạo thành hài hước vui vẻ yêu đời đến thế mà vẫn không làm suy giảm ý nghĩa tuyên truyền giáo dục hiện thực của vấn đề...Cậu còn trẻ, lại cùng quê với Bút Tre. Đánh đấm xong mà còn sống trở về thì chắc suất gặp Bút Tre đấy...Ở khía cạnh nào đấy, Bút Tre là một công dân đặc sắc không những của Đất Tổ mà là của cả nước...
Viên sĩ quan móc bao thuốc lẹp xẹp ném cho tôi một điếu, cười hinh hích rồi thở dài nối bản: Anh đi công tác Ban Mê/ Thuột xong một cái lại về với em...
Với tôi mấy năm quân ngũ liền sau thì mỗi dịp đọc thơ Bút Tre là một dịp được giải thoát và an ủi cho mình và không ít những đồng đội. Hơn một lần tôi đã thầm cảm ơn Bút Tre, nếu không có kiểu thơ ngộ nghĩnh, kỳ lạ ấy, thì chắc hẳn chúng tôi đã phải chịu đựng không biết bao nhiêu buổi chiều nhạt tẻ tái tê. Nếu không lầm thì hình như năm 1980 tôi tình cờ được gặp nhà thơ dân gian Bút Tre trực diện, trong một hội nghị của Hội VHNT Vĩnh Phú. Vì còn trẻ, lại là bộ đội giữa những cán bộ dân sự, tôi ngồi cuối hội trường. Bỗng bên tai tôi có tiếng xì xào: Ông Bút Tre, nhà thơ Bút Tre Đặng Văn Đăng hôm nay cũng đến kia kìa.
Nảy như bị điện giật, tôi ngớn ngác nhìn quanh, thì thấy ông già vàng ủng tầm thước, tinh anh, áo đại cán màu phù sa nhạt cổ sờn lốm đốm vết nhựa cây, nước chè cặn, quần ka-ki phẳng phiu sạch tinh gấu lơ-vê, dép rọ nâu, mũ cọ, bên hông lắc lẻo chiếc xà-cột của quân đội, thứ chuyên đựng tài liệu và bản đồ. Ông già đó đang được nhạc sĩ Cao Khắc Thủy, nhà văn Văn Chinh mỗi người ôm giữ một cánh tay, kẹp ông vào đi giữa đang ở ngoài sân gạch.
Hai nghệ sĩ cố ép Bút Tre ngồi lên phía hàng ghế đầu của hội trường, nhưng ông thì lại cố trằn ra, đứng khựng bên ngoài cửa sổ. Bút Tre mấp máy đôi môi, hình như chỉnh lại hàm răng giả, nói một câu tiếng Pháp rồi tự dịch, đượm hài hước:
- Đúng là ta có thời là kép chính, nhưng kép chính mãi cũng thành kép phụ, huống hồ ta bây giờ dẫu có mong làm kép phụ cũng không xong thì ép nhau lên trước phông nền sân khấu làm gì cho tanh dơ danh phận.
Tức thì nhạc sĩ Cao Khắc Thủy và Văn Chinh buông rời Bút Tre. Nhà thơ nhanh nhẹn đến bên cửa sổ ngó vào hội trường hồi lâu, rồi vẫy vẫy hai nghệ sĩ nọ lại gần vểnh chiếc cằm lơ thơ râu bạc ngắn dài nói bô bô:
- Hư ..các cậu kiểm người chưa? Đấy trông xem...phe miền Tây chúng ta vẫn chiếm đa số hội trường...
Hai nhà nghệ sĩ cười bối rối, nhìn trước nhìn sau ý tứ. Hình như họ sợ có ai nghe thấy. Mãi sau này thì tôi mới hiểu thái độ của hai đàn anh lúc đó khó xử như thế nào. Bởi tỉnh Vĩnh Phú được thành lập do hợp nhất tỉnh Vĩnh Phúc ở phía Đông và tỉnh Phú Thọ ở phía Tây, nên đã nảy sinh bè phái do một số cán bộ tiêu cực ở cả hai tỉnh cũ lôi kéo quần chúng dựng nên. Tôi không rõ Bút Tre cố tình làm lọt tai một số người điều đó là vì mục đích gì? Bản vị địa phương, hay là giễu cợt cái sự gây bè kéo phái gây hoạ cho dân cho nước.
Ông tấp tểnh quay gót rất nhanh.
Giờ thì lại là ông già Bút Tre hai tay lôi hai nhà văn xềnh xệch ra cổng hội trưởng tỉnh Vĩnh Phú. Tôi tò mò thủng thẳng đi theo ba người. Chiếc xe đạp dựng bên hàng rào gạch, vỏ yên nhựa đứt ngậm, vếch lên như mõm chó, không chắn bùn, chắn xích, lốp buộc khúc lồi khúc lõm như rắn cạp nong, poóc-ba-ga buộc một bó sắn tươi bọc lá cọ.
Bút Tre hào hứng chỉ vào bó sắn củ:
- Này đây sắn cao sản mới được các anh ở sở Nông Nghiệp cho trồng thử ở quê. Các cậu có thèm không, tớ cho tất luộc tất mà ăn. Bở tắc cổ họng...
Nhạc sỹ Khắc Thùy xua tay:
- Thôi ạ, sắn này chắc bác mang lên báo cáo Tỉnh chứ gì. Thôi để hôm khác ạ..
Nhà văn Văn Chinh liền tay đặt lên bó sắn:
- Sắn nhà thơ Bút Tre trồng có khác, củ nào củ nấy múp míp như lợn con. Thôi thì chúng con chỉ dám xin bố hai củ gọi là nếm thử. Để bố còn mang đi cung tiến chứ...Con cam đoan với bố, ông tỉnh nào hôm nay nhận bó sắn này của bố thì thế nào cũng phải ký nhoằng gia ân cho xã Đồng Lương một món hớ...
Nhà thơ Bút Tre cười khơ khơ:
- Chịu các thày, chả là cái trạm xá xã mới bị tốc mái... các lão biết vậy thì tớ không cho các lão nữa. Hôm nay các lão có hội nghị, được ăn no, ăn tươi rồi...
Bút Tre chợt ngẩng lên, và thấy tôi đang bị thu hút bởi chính ông . Ông lại gần tôi, chìa bàn tay nhăn khô loem nhoèm mực, loại mực tím gia công từ thuốc nhuộm thời đó, một bàn mềm và ấm cho tôi:
- Đồng chí bộ đôi trẻ quá nhỉ... cậu lính...cậu có ăn sắn thì tôi cho. Tôi chỉ cho cậu thôi...
Nhạc sĩ Cao Khắc Thủy phấn khởi khoe với Bút Tre, theo giọng điệu Bút Tre:
- Báo cáo bác, cậu lính đây là mầm măng non văn học của tỉnh nhà, chúng em mới sưu tầm được để bồi dưỡng trong trại viết đợt này đấy ạ...
Bút Tre nheo nheo mắt nhìn tôi thân thiết. Sự hóm hỉnh bỗng rực lên trong mắt tinh anh của ông:
- Là mầm măng, nhưng thế hệ các cậu không thể là tre nứa bương diẽn được. Phải là đinh lim sến táu là sắt là gang là đồng mới ổn...
Tôi không nhớ mình đã thưa thốt với ông những gì, lúc nhìn lên thì thấy ông đang dậm nhảy lấy đà để ngồi lên chiếc yên xe nhựa rách. Chiếc xà cột, chiếc xe đạp và hình như cả những khớp xương của ông cùng một lúc rung lên sòng sọc.
Bẵng hơn năm, họa sĩ Nguyễn Đài được một chuyên san ở Sài Gòn điện ra đặt ký hoạ cho bổn báo chân dung Bút Tre Đặng Văn Đăng và loạt phóng sự ảnh thêm vào thì càng tốt. Báo miền Nam có khác, họ giử kèm theo luôn cả tiền cọc, tôi không nhớ chính xác là bao nhiêu những cỡ tiền triệu bây giờ. Hoạ sĩ Nguyễn Đài xông xênh lại ham vui liền mò đến trại viết văn của quân khu II rủ tôi đi theo làm thằng hỉ đồng, dắt xe đạp, ôm cặp vẽ, đeo máy ảnh (tất nhiên là máy ảnh đi mượn) !.
Từ Việt Trì băng qua phủ Lâm, vượt phà Gềnh sông Thao, hai chúng tôi đến trước hàng rào dâm bụt và cây cúc tần luồn vào những đoạn tre gai làm bờ rào nơi cổng nhà thơ Bút Tre thì nắng cũng sắp đứng bóng. Làng Đồng Lương trưa hè xao xác những tiếng gà lẻ. Khóm chuối, hàng tre, lá cọ ỉu xìu.
Căn nhà ngói năm gian thì khép cửa hờ hai gian bên, ba gian giữa cửa để thông lông. Con chó mực nằm úp ruỗi bốn chân nơi góc hè, thấy động hé mắt nhìn chúng tôi giây lát rồi buông mi khép mắt lại. Trên tấm phản gian bên, Bút Tre trong bộ pi-gia-ma kẻ trước kia có lẽ sáng màu lắm, chân vắt cao lên gờ cửa sổ, lộ hai ống chân như hai ống tre khô lóp lép, chiếc quạt lá cọ ể oải lạch xạch...đầu kê lên chiếc gối gỗ nâu bóng.
Nguyễn Đài hắng giọng, Bút Tre lật người ngồi phắt dậy, lia chiếc quạt lá cọ vào góc nhà, dường như ông đã nằm đó chỉ để mà chờ đợi ai đó đến thăm mình:
- Ôi, các lão đấy à? Bút Tre ôm chầm Nguyễn Đài- Ôi ông họa sĩ Nguyễn Ra-đi-o (Bút Tre chơi chữ ) lại cả ông bộ đội nữa kia à? Cậu lính này tôi nhìn quen quen...nắng chó le lưỡi mà các lão cũng lặn lội giỏi nhỉ? Cơm nước gì chưa... Các lão mò lên tận đây hẳn phải có việc cần. Hôm nay có mỗi tớ ở nhà thôi, cứ ở yên đây nhé...
Nhộn nhạo lẹp xẹp đôi dép nhựa gia công nâu sần trong nhà mấy lượt, một giây trầm lắng, Bút Tre cao hứng giơ hai tay lên hỉ hả: Hoan hô văn nghệ chúng mình/ Sướng lên là bất thình lình việc công...
Hai chúng tôi ngồi giữa nhà kéo vạt áo lau mồ hôi. Thấy tôi ngó nghiêng hồi lâu căn nhà, Bút Tre đi ra ngoài sân còn ngoái lại:
- Nhờ có ông nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, viết một bài bút ký từ những năm bảy bảy ôn nghèo kể khổ hộ tớ, nào là gia đinh liệt sỹ, cán bộ lão thành nên tớ mới được các ông tỉnh cấp vật liệu cho xây cái nhà này đấy.
Năm gian nhà tềnh toàng, tường xây vênh váo, mái ngói lượn sóng lọt cả khe trời, cửa sập sệ, mạng nhện chăng như trận đồ bát quái. Trông tựa mấy gian kho để phân đạm hay thuốc trừ sâu của HTX Nông nghiệp bất kỳ. Nếu không có căn bếp nối liền bên gian buồng, thì không thể nghĩ đây là nhà tư.
Ghế mộc kập kiễng, bàn viết chất cao lộn xộn bản thảo, sách, báo, tạp chí có một số tiếng Pháp có đống dấu Bộ Ngoại giao. Chiếc đèn dầu thông phong ám muội khói ma-rút. Chiếc kính lão dày cộp gọng nhựa Đức nhờn nhờn cặn rỉ đen, buộc dây đồng một bên khớp gập. Mực lọ nút là chuối, bút ngòi chấm, quản tre. Thứ chữ trên bản thảo, mới nhìn thì tưởng dễ đọc, nhưng nhìn kỹ thì chỉ có thể đọc được ký tự đầu tiên còn lại cứ như là mớ rau muống khô đóng hộp nơi trại lính mà Bút Tre vừa tẩm mực tãi ra trên giấy. Người ta còn nói, nhiều văn bản viết trong lúc cao hứng, Bút Tre còn không đọc nổi mình viết những gì, không ít lần ông đã phải cho gọi cô văn thư của Ty Văn hoá (vợ nhạc sĩ Cao Khắc Thuỳ- Chánh văn phòng Hội Nhạc sĩ VN bây giờ) lên phiên dịch lại chữ của chính mình.
Tôi đã cố đọc được bản danh sách những tác phẩm ông đã sáng tác sau khi về hưu mà ông đã lên kế hoạch. Địa chí xã Đồng Lương, Nguyễn Trãi- người anh hùng dân tộc, ( 4 phần đầu đã gửi báo cáo Thủ tướng Phạm Văn Đồng) Nguyễn Quang Bích, Nhật ký thơ ( Đường luật).
Lẫn trong mớ bản thảo lá thư từ của bạn đọc và thư của nhiều văn nghệ sỹ nổi tiếng trong cả nước tâm giao với ông. Và, một điều quan trọng trên bàn làm việc tờ bìa ghi lại câu nói của Bác Hồ khi về thăm Đền Hùng, mà chính Bút Tre là người chấp bút: "Các Vua Hùng có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giũ lấy nước."
Tôi xoay người nhìn giá sách, những từ điển bọc da gáy chữ mạ vàng, những tuyển tập quan trọng về chủ nghĩa xã hội và vô số các loại sách từ văn học, lịch sử, hồi ký, điạ lý, kinh tế dễ đến hàng cuốn sắp xếp không theo một trình tự. Chứng tỏ chúng luôn được chủ nhân sử dụng. (Về kho sách quí giá này thì tôi được biết, những năm cuối đời khi mắt kém không thể đọc sách, các con cháu không ai nối nghiệp, Bút Tre đã thuê hai chuyến xe bò vượt sông Thao tặng hết cho thư viên thị xã Phú Thọ.)
Lát sau ông lão Bút Tre cầm đâu về ba quả trứng vịt.
Bữa trưa của chúng tôi được mang ra là cả một nồi xúp thập cẩm, hạt bo bo, củ từ, loáng thoáng hạt gạo, khuỷu xương lợn nguyên cả móng giò và xương ống, rau mồng tơi, rau ngót, rau đay. Và thêm cả ba qủa trưng vịt. Bút Tre luôn tay quấy đều đũa cả nồi xúp nóng bốc hơi ngùn nghụt, lăm dăm váng mỡ. Tôi nhìn đôi đũa cả tre cật già ám ảnh, chẳng biết đã dùng bao nhiêu năm, phía đầu ghế cơm đã mòn thắt cổ chày. Đồng Lương đâu có thiếu tre, kể cả tre để làm củi làm bờ rào, mà ông lại không chịu vót đôi đũa mới nhỉ.
Múc xúp ra ba cái bát loa, cái nào cũng mẻ sứt đặt sẵn ba thìa nhôm mòn vẹt, hai bát đầy, một bát vơi, Bút Tre kéo lại lòng mình bát vơi, dùng lưỡi đẩy tới đẩy lui hàm răng giả hỉ hả:
- Các lão ăn thật lòng đi nhé. Có vậy thôi, tớ ăn nhẩn nha ăn từ sáng tới giờ.
Ông lão lại lăng xăng chạy vào bê ra bày trên bàn đĩa muối nướng và mấy quả ớt chỉ thiên vàng hung hung:
- Lão nào chưa đủ đặm đà thì cho thêm vào. Nếu mà mặn quá rồi thì đổ thêm nước phích nhé. Khẩn trương rồi nghỉ ngơi chu đáo ta mới làm việc.
Ông lão mút mút từng thìa xúp khó nhọc.
Tự dưng tôi thấy buồn. Bữa ăn diễn ra trong sự ắng lặng. Tôi liền gợi lại những gì tôi được biết về ông với một sự thận trọng rón rén như đi trên thuỷ tinh vỡ, chọn lựa từng từ để khỏi làm ông mếch lòng.
- Hồi mới mười lăm tuổi cháu đã được nghe người ta nói nhiều đến bác...
Bút Tre sáng ngời liền vung tay chém chém:
- Thiên hạ sẽ còn phải nói lâu nói nhiều nhiều đến Bút Tre... Thì sao ai cũng thích nghe/ Cứ nghe mà biết Bút Tre là cười/ Bao biêu bút sắt mòn rồi/ Bút Tre vẫn để cho đời nguồn vui...
Hoạ sĩ Nguyễn Đài vốn cũng hay thơ liền tủm tỉm thêm vào: Cuộc đời dù có tối thui/ Đuốc tre thắp sáng rút lui kẻ thù....
Bút Tre buông phịch bát xúp vỗ bàn cười ha ha:
- Các lão thấy chưa. Giá trị thơ Bút Tre là ở chỗ, khi đã nắm rõ cung cách thì ai cũng có thể tập được như tập Kiểu.
Bát đũa dọn đi, ông lão cầm ca nước chè tươi ra đầu hè ý tứ rửa hàm răng giả, trở vào uống nước bỗng trầm ngâm:
- Thời điểm tớ làm Trưởng ty Văn hoá TT thì vừa mới trải qua vụ Nhân Văn giai phẩm không lâu. Mà nhiệm vụ của ngành lúc đó mục đích số một là phải tuyên truyền nhanh, kịp thời, sâu sắc đường lối chính sách của Đảng là xây dựng CNXH ở miền Bắc, cổ vũ cho đồng bào miền Nam đấu tranh giành độc lập thống nhất đất nước. Tớ chẳng có thời gian tuyên truyền kiểu hàn lâm. Dân chúng thì phải gây sốc thì họ mới nhớ được. Bởi chính sách của ta nhiều cái cứ na ná nhau rất khổ cho việc phổ biến...Chúng ta đã quá chú trọng đến mọi phong trào trong cùng một thời điểm....
Nguyễn Đài chỉ vào giá sách:
- Cụ đọc đông tây kim cổ chẳng thiếu sách nào. Sao khi sáng tác cụ lại viết mang nặng tính phong trào thế ạ...
Bút Tre gườm gườm hứ một cái:
- Cái nước mình nó thế, chết một đống còn hơn sống một người. Danh dự một người không quan trọng bằng danh dự của nhiều người. Văn chương bác học thì hẳn như cụ Nguyễn Du, Nguyễn Tuân...còn không thì bút tre hoặc bút nứa còn có ích hơn. Nửa nạc nửa mỡ khó lắm thay...
Sau này chuyển ngành về chính cơ quan Bút Tre phụ trách ngày xưa, tôi có dịp tiếp cận chính thức một số tác phẩm của ông khi được cùng nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn biên soạn cuốn "Giai thoại Bút Tre". Những thứ đó có thể gọi là thơ, là vè, là diễn ca, thơ văn xuôi cũng ổn, hình thức lúc thì lục bát, đường luật, thất ngôn, tự do chen cài lẫn lỗn, nó không cần cấu tứ, bố cục. Nghĩa là dù nội dung hay hình thức đều phụ thuộc vào tâm trạng Bút Tre lúc đó thăng hoa tuỳ theo biên độ nào đó. Người đọc vừa bực vừa buồn cười. Mệt nhưng thích. Tò mò. Đã cầm đọc thì phải cố mà đọc hết. Những chỗ tức cười, ngang ngang thì lại những chỗ nội dung cực kỳ quan trọng của vấn đề mà Bút Tre muốn hướng người đọc tới đích.
Làng Đồng Lương hầu như ai cũng thuộc vè biết đặt vè, nơi Bút Tre sinh ra thuộc vùng văn hoá cổ ở Phú Thọ. Làng Đồng Lương liền kề với làng Văn Lang, một Grobvo của Đất Tổ và làng Thanh Uyên cái nôi của hát Ghẹo có từ thời Hùng Vương tạo nên một địa tam giác văn hoá đặc sắc.
Có lẽ Bút Tre là hiện tượng văn nghệ quần chúng tuyên truyền trực tiếp phục vụ chính trị duy nhất đột biến trở thành trào lưu văn nghệ dân gian ngay khi tác giả đang còn sống.
Thực vậy, đã là người Việt Nam, dù ở bất cứ nơi nào trên thế giới tự dưng đều thuộc dăm ba câu thơ Bút Tre, thuộc mà không biết vì sao mình thuộc.
Thơ Bút Tre được người ta tấu lên mỗi khi rơi vào tình thế không bình thường, vui quá hoặc buồn quá. Nó như một liều thuốc giảm stress. Bất cứ ai đã một lần được nghe, được đọc, tinh ý một chút nắm được qui luật ngắt câu xuống dòng giữa chừng, ép vần ép chữ là tự mình có thể làm được dăm ba câu thơ kiểu Bút Tre.
Xin được trở lại trưa hè Đồng Lương tháng 4 năm 1982.
Hoạ sĩ Nguyễn Đài loay hoay bố cục các tư thế để Bút Tre ngồi mẫu, nhưng ông lão ngồi chưa được nửa phút đã nhấp nhổm không yên, nào ho, nào chẹp miệng làm rơi hàm răng giả xuống đất, nào gãi cổ gãi đầu. Nguyễn Đài toát mồ hôi bặm môi đưa bút. Bút Tre đưa tay cào cào mái tóc dựng ngược:
- Cậu nên vẽ cho tớ cái portrait như cả một khối củ tre tua tua rễ thì mới ra cá tính cuả tớ được.
Chẳng hiểu có phải do ông lão mách nước hay không mà Nguyễn Đài đã dùng bút sắt ký hoạ rất nhanh bức chân dung Bút Tre tóc dựng ngược như rễ tre và nét mặt vừa khắc khổ diễu cợt với chút ít ánh mắt le lói lạc quan. Nhìn bức chân dung mình còn tươi nét mực Bút Tre móm mém cái cười gật gật. Trong lúc ngồi cho Nguyễn Đài vẽ tiếp, ông bảo tôi:
- Cậu lính vào trong gian buồng sát cửa bếp có đặt thùng lương khô đựng mỳ sợi vụn, cậu mang hộ cái nắp đậy ra đây hộ mình.
Nói là gian buồng nhưng trống không, chả có gì đáng giá ngoài chiếc giường gỗ xoan và lá màn ám khói nâu xỉn buông rủ. Lia mắt một lượt, tôi đã thấy ngay cái thùng sắt tây vuông vuông có chữ Trung Quốc. Một khung vải úp ngược to hơn cuốn sổ cái chấm công điểm của HTX, chèn nửa hòn gạch chỉ thay cho cái nắp sắt đã không còn. Tôi thận trọng nhấc nửa viên gạch lên, tức thì mùi mỳ mốc hăng sực, một vài con gián bay vụt ra ngang mặt...Thì ra đây là khung toan. Bụi đóng bám không còn nhìn rõ màu sắc hình hài trên đó.
Ngồi trên ghế Bút Tre nhoài đỡ tấm toan, thổi bụi phù phù, kéo vạt áo pi-gia-ma lau lau xoa xoa, cảm thấy chưa ổn ông liền với chiếc khăn rửa mặt còn ẩm phơi trên dây mây căng trước thềm miết cho đến khi lộ hẳn hình hài trên toan:
- Đây là bức portrait của hoạ sĩ Trần Văn Cẩn vẽ cho tớ từ năm 1962 khi về thăm lại khu 10. Thủ đô Văn nghệ kháng chiến.
Tôi và họa sĩ Nguyễn Đài ngẩn ngơ nhìn người đàn ông trong tranh. Lịch lãm, đôn hậu vẻ tự tin phảng phất mỗi buồn u uẩn, giống như một giáo sư đại học bất chí. Tôi tìm chữ ký tác giả trên bức tranh mà không thấy. Nguyễn Đài buột miệng:
- Hồi xưa bác đẹp trai thế này, đi kháng chiến có làm khổ em nào không...
Bút Tre bùi ngùi thở dài:
- Tớ theo kháng chiến thì đã lấy vợ rồi. Đâu dám tý máy tý mẻ gì nữa. Mà cũng có một đám hương sắc lắm... Tôn Nữ Minh Ng.. nữ sinh Đồng Khánh. Hai bên mếm cảm nhau ..nhưng chỉ trò chuyện qua thư từ mươi năm rồi người ta đi lấy chồng...
Nguyễn Đài chẹp miệng tiếc rẻ:
- Sao bác không làm quách luôn hai bà. Hồi đó đã gắt gao kiểm soát như bây giờ đâu, khối ông kháng chiến lấy bà hai bà ba đấy thôi...Hội Văn nghệ của ta có ông Sao Mai hai bà nhỡn tiền...
- Người ta khác, mình thấp cổ bé họng. Bì phấn với vôi. Vả lại hai vợ thì thương sao hết cho khắp được...
Anh Đặng Thành Phiến con trai cụ Đăng kể lại sau này. Hồi 1987 cụ mất được sáu tháng, thì có nhận được một bức điện báo phân ưu với gia đình. Bức điện báo từ một tỉnh phía nam.
Nguyễn Đài thọc mạch hỏi tiếp:
- Nghe nói, hồi bác làm thư ký cho ông Ung Văn Khiêm, ngoài lần theo thứ trưởng tháp tùng Bác Hồ sang Ân Độ, phụ trách điện đài bác đã dịch sai mật mã ra; bác còn xông vào cuộc cuộc họp của Bộ Chính Trị dưới gầm nhà sàn của Bác Hồ?
- Cậu nghe hơi nồi chõ ở đâu vậy?
- Thì cũng như nghe dị bản thơ Bút Tre ấy mà. Bút Tre đã cầm văn bản đi tìm thủ trưởng Ung Văn Khiên xin chữ ký, đi thẳng vào khu vực cấm mà cảnh vệ không ngăn lại. Khi nhận ra mình quá đà thì quay lại không kịp, sợ quá Bút Tre đã giả vờ trượt ngã, chính Bác Hồ đã bỏ họp chạy ra hiên đỡ Bút Tre đứng dậy hỏi: Cháu có đau lắm không? Và Bác Hồ còn cho luôn Bút Tre một hộp dầu bôi. Chuyện đó có thực không ạ?
- Đại khái như vậy, lần đó suýt nữa tao chết vì kiểm điểm đấy...
- Thế còn cái vụ đàn Piano cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì sao ạ?
Bút Tre chẹp miệng:
- Thì cũng có gì đáng nói đâu, chẳng là hồi mới về làm Trưởng ty tớ đã đề nghị tỉnh cho mua đàn Piano cho đoàn Văn công, nhưng tỉnh lại bảo đang cần sắn khô chứ không cần Piano. Cuối năm đó Đại tướng về Phú Thọ công tác, yêu cầu cho mang đàn Piano đến để Đại tướng thư giãn, thì chính ông quan tỉnh từ chối không cho mua đàn Piano lại cho thư ký sang bảo tờ mang đàn Piano đến nhà khách cho Đại tướng. Tớ đốp luôn thẳng thừng: Văn hoá chỉ có sắn thôi. Lấy đâu đàn Piano...
Nói xong ông bỗng bất động như một momie.
Tại sao Bút Tre lại buồn thể nhỉ. Một người trải nghiệm nhiều lẽ trong đời, hiểu lắm ngóch ngách trên dưới đã dám mang thân phận tạo một cuộc cách mạng chữ nghĩa động trời bất chấp khen chê của người đời mà cũng phải buồn ư. Tôi mờ phỏng định, đêm hội đã tàn, khán giả đã về, phông màn đã gấp, ánh sáng màu đã tắt, vỡ diễn có thành công đến đâu, người nghệ sĩ lúc tẩy trang cởi bóc râu tóc giả làm sao mà tránh khỏi lạnh lòng khi nhìn lên trời chỉ có trăng sao suông suông...
Nguyễn Đài chụp Bút Tre hết cuốn phim đen trắng nữa thì ngả chiều. Mặc dù Bút Tre tha thiết níu giữ, hãy ngủ lại với ông một đêm cho ông đỡ "khát thèm" không khí văn nghệ. Nhưng chàng hoạ sĩ đào hoa Nguyễn Đài, đã trót hẹn một hẹn với người đẹp đang học trung cấp thư viện ở Thuỵ Vân-Việt Trì. Ông lão Bút Tre lóng ngóng buộc vào ghi-đông xe đạp của chúng tôi một nải chuối lá chín ương bắt mang về làm quà. Những ngón tay lấm mực, nhăn nheo điểm chấm da mồi cứ run rẩy lên một cách bất thường. Chỉ xuống cuối vườn chè, dưới lũy tre ngà ông lão Bút Tre vỗ vỗ ngực bảo:
- Chỗ ấy là nơi chôn cái xác phàn này...
Chính vì nải chuối ương của Bút Tre, khi gặp cơn mưa chiều có giông gió mạnh, tôi bị cướp lái, thế là cả hai anh em lao xuống một cái ao sâu lút cổ lối rẽ vào đầu làng Thụy Vân. Mấy bức ký họa, cuốn phim chụp Bút Tre chưa kịp tráng, ngâm trong nước ao tù. Hôm sau tôi phải về đơn vị, chẳng biết rồi Nguyễn Đài sẽ ăn nói với bổn báo trong nam kia ra sao, khi tiền đã tiêu mà tranh lẫn ảnh đều không...
Cho đến bây giờ hình ảnh ông lão Bút Tre nhỏ gầy đứng nơi đầu ngõ vắng của miền thượng du heo hư vô vàn lá tre lá cọ lật ngược lên trời vẫn khiến tôi nao lòng. Ông đã mang lại tiếng cười cho bao nhiêu con người, nhưng cái buổi chiều ấy khi một mình ông đã không tìm nổi một cái cười cho riêng...
Tháng 5 năm 2007.
Nguyễn Tham Thiện Kế
-----------------------
Ảnh 1. Chân dung Bút Tre và bìa cuốn “Giai thoại Bút Tre” – lần đầu được Sở Văn hóa Thông tin Vĩnh Phú xuất bản. Biên soạn: Nguyễn Hữu Nhàn, Thiện Kế, vẽ bìa Quang Thái. Chịu trách nhiệm xuất bản Ngô Quang Nam.