Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

“KHÚC KHA KHÚC KHÍCH” VỚI NHÀ THƠ TRẦN NHƯƠNG

Mai Văn Hoan
Thứ năm ngày 17 tháng 7 năm 2025 3:02 PM




Có thể gọi nhà văn Trần Nhương, họa sĩ Trần Nhương nhưng đang viết về thơ anh nên tôi gọi anh là nhà thơ Trần Nhương. Anh tự đặt biệt danh cho mình là Trần Ham Vui. Cái biệt danh ấy phần nào thể hiện tính cách của anh, phong cách nghệ thuật của anh. Tính cách ấy, phong cách ấy định hình dần theo thời gian. Nơi nào có anh là nơi đó vui vẻ hắn lên. Xem tranh của anh, đọc văn thơ của anh gần đây nhiều người (trong có tôi) cứ “khúc kha khúc khích”.

Cuối năm 2024, Trần Nhương ra mắt tập thơ Gió thu vừa chạm ngõ do Nhà xuất bản Hội Nhà văn cấp phép. Tiêu đề tập thơ đẫm chất trữ tình nhưng mà trữ tình theo cái kiểu Trần Ham Vui. Đó là trữ tình của một Trần Nhương từng trải, dí dỏm, hóm hỉnh, bông phèng. Đã từng chứng kiến bao cuộc bể dâu, nên với anh mọi thứ trên đời này “chẳng có gì quan trọng”: Những cuốn sách một thời như sấm Trạng/ Giờ bán cân bà đồng nát mua về/ Những quy phạm một thời như thước ngọc/ Thành vết hằn ghi dấu sự ngô nghê. Anh chiêm nghiệm: Em của anh ơi/ Chẳng có gì là quan trọng/ Đến tình yêu cũng có thể già/ Ta hãy sống vô tư như trẻ nhỏ/ Sáng xuân này lối ngõ nở đầy hoa (Chẳng có gì quan trọng). Nói thì dễ, nhưng đến cái tuổi trạc ngoại bát tuần mà vẫn sống hồn nhiên, vô tư như trẻ nhỏ không dễ chút nào. Giữ được cái chất hồn nhiên, vô tư như trẻ nhỏ phải là người đã ngộ ra nhiều thứ vô bổ, phù phiếm mà không ít kẻ đang cố sức theo đuổi. Anh từng mượn lời người Bạn quê để bày tỏ thái độ khinh bỉ của mình đối với những kẻ háo danh hám lợi: Kệ cha thằng ham chức/ Thây mẹ con máu tiền/ Bác cứ theo em nhé/ Tý nữa là lên tiên

Có một thời tôi rất thích những câu thơ giàu trí tưởng tượng và hết sức lãng mạn của nhà thơ trẻ khoác áo lính Trần Nhương: Em sửa đường trên đèo Ba Pông/ Từng nhát cuốc có mây vào quấn quýt/ Trăng rất gần suối thì xa tít/ Em ở trên này như trên cung mây (Vành trăng trên đèo Ba Pông). Đọc bài Thương em được anh sáng tác cách đây đã hơn bốn mươi năm trước, tôi bắt gặp những câu thơ giàu chất hiện thực viết về những người vợ lính thời chiến tranh: Một mình em, một mình em/ Ban đêm với một ngọn đèn là hai; Một mình em đứng em ngồi/ Bữa cơm còn vắng câu mời, bát đưa/ Thương em ra chợ ngẩn ngơ/ Cái làn rau xếp với dưa chẳng đầy… “Rằng hay thì thật là hay”, nhưng dấu ấn riêng ở những câu thơ này chưa thật đậm nét, vì thế rất dễ lẫn vào trào lưu thơ hiện thực và lãng mạn đương thời. Bây giờ thơ anh cũng lãng mạn và hiện thực nhưng lãng mạn và hiện thực không giống ai, không lẫn vào đám đông. Cũng làm thơ về vợ nhưng thời mặc áo lính anh nghiêm cẩn bao nhiêu thì giờ đây anh thoải mái, tự nhiên nhi nhiên bấy nhiêu. Anh trêu chọc vợ nhưng cũng là trêu chọc các quý bà thường rủ nhau tham gia các nhóm thể dục nhịp điệu, tập múa, tập hát, tập khiêu vũ… Anh “khúc kha khúc khích” và bạn đọc cùng “khúc kha khúc khích” với anh: Giơ chân nhiều bận lộ hàng/ Vung tay vòng một nở nang bưởi bòng/ Môi thì đỏ má thì hồng/ Váy dài váy ngắn hở mông hở đùi… Anh tiếp tục “khúc kha khúc khích”: Vợ tôi sướng khắp thịt da/ Lắc mông ngoáy đít điệu đà “Lăm tơi”. Năm ngoái (2024), khi chưa về miền mây trắng, chị nhà đọc những câu thơ tếu táo này chắc là không nhịn được cười. Chị không nỡ trách giận anh, vì chị quá hiểu cái tính hay bông phèng của chồng mình. Anh chỉ bông phèng, tếu táo để chọc cười thôi. Đằng sau tiếng cười là niềm cảm thông, chia sẻ: Vợ tôi vui đến ngất trời/ Nàng đang kéo lại một thời thanh xuân (Thơ vui tặng vợ). Thời thanh xuân của vợ anh và các quý bà cùng trang lứa đã từng nếm trải bao gian khổ, mất mát, hy sinh. Các chị đã dâng hiến cả tuổi xuân của mình cho đất nước. Đọc câu “Nàng đang kéo lại một thời thanh xuân”, tiếng “khúc kha khúc khích” bỗng chìm lắng xuống, nhường chỗ cho tiếng thở dài đầy tiếc nuối. Bởi nói như Xuân Diệu đời con người ta “tuổi trẻ không hai lần thắm lại”.

Các thi sĩ xưa nay phần lớn đều rất đa tình. Sống giữa thời “nam nữ thụ thụ bất thân”, Nguyễn Công Trứ từng dõng dạc tuyên bố: “Cái tình là cái chi chi?/ Dẫu chi chi cũng chi chi với tình”. Trong bài Tình bằng cụ Trần Ham Vui tủm tỉm nhắc lại giai thoại “thuyền quyên ứ hự” và câu thơ Nguyễn Công Trứ trả lời người vợ trẻ: “Ngũ thập niên tiền nhị thập tam” (Năm mươi năm trước ta hai ba tuổi): Ngũ thập niên tiền Uy Viễn/ Tình bằng “Ứ hự” đa mang. Đúng là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Có điều cụ Nguyễn Công Trứ năm đó mới bảy ba tuổi, còn cụ Trần Ham Vui năm nay (2025) đã ngót nghét tám ba. Ấy thế mà cái thói đa tình của cụ Trần Ham Vui chẳng kém cạnh cụ Nguyễn Công Trứ chút nào. Tôi chưa từng thấy ai trạc ngoại bát tuần mà yêu một cách táo bạo, liều mạng, mãnh liệt như nhà thơ Trần Nhương. Trước đây anh còn bóng gió: Gặp thu cũng muốn ngoại tình/ Lại e sen muộn đầu đình ngóng trông (Chớm thu). Cách nói bóng gió này ngày một thưa dần, thay vào đó là cách nói tếu táo, bộc trực, dí dỏm, hài hước khiến bạn đọc không thể không “khúc kha khúc khích” với anh. Hãy xem cái cách cụ Trần Ham Vui bám đuôi người đẹp: Sáng nay đường rất đông người/ Em nhông xe máy hở mười phân lưng/ Tay ga anh bỗng ngập ngừng/ Vượt lên hay cứ lừng chừng bám theo… (Sáng nay). Cái điệu “ngập ngừng”, “lừng chừng” của anh khiến tôi nhớ đến chàng quân tử trong bài thơ Thiếu nữ ngủ ngày của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương: Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt/ Đi thì cũng dở ở không xong. Có vị giáo sư cho rằng Hồ Xuân Hương muốn làm ê mặt các đứng quân tử thời phong kiến. Tôi không nghĩ như vậy. Đứng quân tử thời nào mà chẳng “dùng dằng” trước “tòa thiên nhiên” đẹp đến mê hồn như vậy. Anh Trần Nhương sử dụng công nghệ hiện đại rất sành điệu. Các bạn trẻ chưa chắc đã sử dụng điện thoại di động, máy tính, quay video webcam trực tuyến… sành điệu hơn anh. Anh còn lập cả trang Web. Trang Web của anh hiện có hơn 30 triệu lượt người theo dõi. Các bạn trẻ cũng chưa chắc yêu đương một cách bạo dạn, liều lĩnh, say đắm như anh. Đọc mấy câu thơ sau đây ít ai ngờ đó là thơ của ông già đã trạc ngoài bát tuần: Có thể chỉ là giao đãi/ Nhưng dịu dàng em rười rượi cả lòng/ Tinh tinh mỗi sớm dòng tin nhắn/ Suốt ngày mờ tỏ nẻo lưng ong… (Tin nhắn). Và: Ơn giời rồi em cũng đến/ Sáng trưng ngõ nhỏ nụ cười/ Vòng tay có gì bối rối/ Đất nghiêng sắp chạm đến trời (Nụ cười ngõ nhỏ). Quả là tình yêu không có tuổi! Ngẫm cái điều ước của cụ ông đã trên tám mươi mà tôi cứ tủm ta tủm tỉm một mình: Chỉ mong rét mãi còn non/ Để ôm cô bé lon ton cởi truồng (Rét non). Ở trên đời chẳng có mấy người yêu đương công phu như nhà thơ Trần Nhương: Đằng đẵng xa em/ Hôn một nụ vượt hai ngàn cây số (Nghĩ vụn trên máy bay). Nụ hôn ấy mới “đáng đồng tiền bát gạo” làm sao! Năm sáu lăm tuổi, tôi từng vượt một ngàn cây số vào ra Nha Trang cũng chỉ mong có được một nụ hôn như thế. Tưởng đã ghi “kỷ lục”, nào ngờ nhà thơ Trần Nhương còn vượt quãng đường dài gấp đôi. Bởi thế nên tôi vô cùng nể phục anh. Đến cái ngưỡng “gần đất xa trời”, bạn bè đã lần lượt ra đi, số còn lại phần đông gối mỏi, chân run, mắt mờ, tai lãng, nhưng anh Trần Nhương xem chừng vẫn còn sung sức lắm. Có người cho là anh chỉ “đánh giặc mồm”. Tôi không tin anh chỉ “đánh giặc mồm”. Mà dù có “đánh giặc mồm” đi chăng nữa thì cũng ít ai ở tuổi anh, ở địa vị anh dám nói một cách công khai về “chuyện ấy” trước bàn dân thiên hạ như anh: Ừ thì vân, ừ thì vi/ Nào em, ta oẳn tù tỳ một phen (Ừ thì). “Oẳn tù tỳ” ai muốn hiểu thế nào tùy ý. Nhà thơ Trần Nhương nói về “chuyện ấy” nhưng không trơ trẽn, không dung tục: Cuồng say nhịp trống Digan/ Và anh như cốc rượu tràn…Và em… (Nhà thờ trinh nữ); Cuộc tìm nhau 50 năm/ Để bây giờ gặp gỡ/ Đêm tình nhịp bảy nhịp ba (Lập trình).

Trước đây Trần Tế Xương thường hay tự trào: Chẳng phải quan mà chẳng phải dân/ Ngơ ngơ ngẩn ngẩn hóa ra đần/ Hầu con chè rượu ngày sai vặt/ Lương vợ ngô khoai tháng phát dần…”. Tự trào của Trần Tế Xương là cách tự cười mình để giễu đời. Ngày nay, nhà thơ Trần Nhương thỉnh thoảng cũng tự trào. Anh thú nhận: Vẫn còn nhiều lúc le te/ Vẫn thơ trộn với hò vè lấy vui/ Vẫn ưa câu ngọt lời bùi/ Vẫn say ong óng dóng đùi mỹ nhân/ Vẫn bao giây phút bần thần/ Vẫn còn nhớ cái trắng ngần ngày xưa… (Giễu mình). Gần đây, có kẻ lên mặt chê thơ người này người nọ là vần vè. Người xưa xếp: Thơ, ca, hò, vè hoàn toàn không phải đề cao thơ, hạ thấp vè. Vè hay vẫn hơn thơ dở. Thơ dở thì chết, vè hay thì sống. Bởi vậy, anh Trần Nhương không ngần ngại trộn thơ ca với hò vè, mặc kệ lời ong tiếng ve. Thế gian mỗi người mỗi mỗi vẻ, không ai giống ai. Có kẻ tính dung dị, thơ cao siêu; có kẻ rất uyên thâm nhưng thơ dung dị. Anh Trần Nhương thì “người sao ngao vậy”. Anh là Trần Ham Vui, thì thơ anh cũng vui tới bờ, tới bến. Đọc thơ anh tôi không thể không “khúc kha khúc khích” với anh. Đó là dấu ấn riêng mà anh góp mặt với đời. Anh là một trong số ít nhà thơ không chạy theo mốt này, mốt nọ cho hợp thời trang.

Mai Tiến Nghị có bài Thơ vui tặng cụ Trần Nhương tóm lược: Sinh ra từ đất Tổ/ Dinh tê về Thủ Đô/ Vẽ tranh khoe đùi vú/ Nhạo đời mà thành thơ/ Chân dài theo hàng tá/ Báo chí viết trăm tờ/ ”Kim kổ kỳ quặc ký”/ Mà hót đến bất ngờ/ Trần Nhương Ham Vui lão/ Trang Web nổi toàn cầu/ U chín mươi răng chắc/ Say đời quắc cần câu. Một bức chân dung bằng thơ có thể sánh ngang những bài thơ vẽ chân dung các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng gần đây. Năm nay tôi bảy sáu tuổi (kém cụ Trần Ham Vui bảy tuổi), cầu trời cho tôi sức khỏe để: Rượu đế la đà châu thổ/ Bia hơi khất khưỡng vỉa hè cùng với nhà thơ Trần Nhương.


Huế, 10-7-2025

Mai Văn Hoan