(Tham luận cho buổi ra mắt sách “Trung-Việt Việt-Trung”,
Toronto, Canada – tháng 7/2016)
Tôi tin chắc một điều, người Việt hôm nay miễn là có lương tri thông thường, bất kỳ ai cũng đều phải phấn khích trước cuốn tiểu thuyết Trung-Việt Việt-Trung(1) và muốn "ngấu nghiến" nó ngay lập tức - chưa cần biết dày mỏng, phải trái, viết theo kiểu gì, hay dở ra sao.
Trung-Việt Việt-Trung - những địa danh được nâng thành khái niệm có nội hàm cả sông máu núi xương ngập "ân oán giang hồ" này, trong suốt thời gian qua, đúng hơn là suốt mấy ngàn năm qua, đã từng ám ảnh biết bao triều đại, biết bao thế hệ người Việt, và trong thời hiện tại, chúng trở thành nỗi đau, nỗi nhục, nỗi căm, sự trăn trở lo toan nhức nhối của từ vị lãnh đạo tối cao tới người dân đáy cùng xã hội! Tôi muốn khẳng định ngay: tác giả cuốn tiểu thuyết này (là loại tiểu thuyết gì không mấy quan trọng) đã đáp ứng được mong mỏi của tất cả những người Việt YÊU NƯỚC không chỉ nhờ khối tư liệu và thông tin khổng lồ quý báu mà anh dày công thu thập, nghiền ngẫm qua "nhiều tháng ngày xa quê Việt", mà còn ở lời kêu gọi thống thiết, lời hiệu triệu vang vọng của/cho một Dân tộc đang đứng trước đại họa hiểm nghèo bậc nhất trong lịch sử: "Đất Nam biển Việt đang thật sự vào giai đoạn hiểm nguy mà mỗi người dân Việt phải sáng suốt, can đảm và quyết liệt để cùng chọn lựa sinh tử lộ cho Tổ quốc." (tr. 292)
Cuốn tiểu thuyết kỳ lạ Trung-Việt Việt-Trung, xét ở mặt nào đó, chính là một phương thức hữu hiệu cho một cộng đồng tự nhận thức lại về mình, sau khi đã nâng lên đặt xuống xem xét kỹ lưỡng những quan hệ Thù - Bạn xưa nay, qua những mối quan hệ bang giao của nhiều nước - trên một tầm nhìn rộng có bản lĩnh chính trị vững vàng làm chỗ dựa.
Những suy tư chiêm nghiệm đến ứa lệ máu của nhà văn qua mỗi chất liệu văn học cụ thể (sự sống, sách báo, lời truyền miệng, thư điện tử...) đã được tổng hợp, nhào nặn lại, tạo nên một ký ức sáng tạo riêng biệt mang tên Đỗ Quyên. Nhưng điều đáng nói hơn cả (và đáng quý nhất), khi "con quay kỳ lạ" của J. P. Sartre vận hành (tức là sự "xuất hiện" của tác phẩm văn học khi có một hoạt động cụ thể gọi là "sự đọc" theo lối "quay" theo những vòng tròn xoáy trôn ốc), thì từ lúc đó chúng sẽ bắt đầu gia nhập vào ký ức chung của cả một dân tộc - dĩ nhiên, chắc chắn không phải là cái “bản năng siêu ý thức tập thể” mà C. Jung từng nói đến! Tác phẩm mới nhất của Đỗ Quyên đã góp vào cái kho ký ức chung đó rất nhiều dữ liệu cần và quý cho hôm nay, nhất là cho lớp trẻ - từ tiếng voi gầm chiến thắng bọn xâm lược phương Bắc của Hai Bà Trưng tới nỗi đau Gạc Ma chưa biết đến bao giờ thôi rỉ máu; từ nền tảng triết lý cội nguồn của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đến lời hịch tướng sĩ thời Trần cùng tiếng thét Sát Thát cho đến nay dường vẫn còn "lung lay bóng nguyệt"...
Tác phẩm chỉ có thể được gọi là tiểu thuyết khi có nhân vật và tâm trạng. Nhân vật chính của tiểu thuyết Trung-Việt Việt-Trung thực ra chỉ là tác giả. Tâm trạng của các nhân vật có thực hay bịa ra trong tiểu thuyết tựu trung chính là của bản thân tác giả, chính xác hơn là chúng được ánh xạ, được tập trung lại để đổ dồn vào một mình tác giả. Điểm nhìn của tác giả và nhân vật tiểu thuyết ở đây trùng với hồi ký/truyện ký. (Nhại theo một thủ lĩnh của Trung Nam Hải: mèo trắng mèo đen bất kể, miễn là bắt được chuột!)
Đây không chỉ dừng lại ở lãnh địa văn chương và những trò chơi của nó, đây còn là sử ký của một sử gia trung thực và dũng cảm, là những đúc kết xã hội học nghiêm túc, là những bình luận chính trị đanh thép mà thấu tình đạt lý, là sự bàn luận chính trực về chiến lược ngoại giao, quân sự, v.v. - rất nhiều đoạn đáng được trích dẫn trang trọng vào các công trình nghiên cứu lịch sử, nhân văn, văn hóa, ngôn ngữ hay thậm chí là những văn kiện chính trị, ngoại giao, quân sự chính thống của Quốc gia - sau khi bóc đi cái vỏ giễu nhại, những râu ria châm biếm, tự bình luận cho sướng hoặc cảm thán cá nhân!
Những câu chuyện giả tưởng, những thơ con cóc, thơ nhại, tiếu lâm thời bao cấp, lối diễn đạt vỉa hè, những cách nói bỡn cợt hay khiêu khích, v.v. đều được Đỗ Quyên sử dụng một cách tưởng chừng như "vung vít", "tự nhiên chủ nghĩa" - song thực ra những "âm binh" đó chưa một lần nào phản thùng tác giả; anh luôn làm chủ chúng, và điều này không chỉ làm mềm đi những đoạn văn chính luận mà còn có tác dụng cực tả cái Thanh Âm của "trường ca văn xuôi bi-hài-hùng" (tr.7) theo lý thuyết của một tác giả thời Chiến quốc nước Trung: "Đạo thanh âm có quan hệ với chính trị" ("Cái âm của đời trị an vui vì nền chính trị của nó hài hòa. Âm đời loạn oán giận vì nền chính trị của nó sai trái. Âm mất nước ai oán, người dân khốn khổ"(2)).
Những câu chuyện về di rời tổ quốc bất thành, về cái mũi khoan và bom dị bào, về mối tình tưởng tượng giữa hai nhà văn ở hai quốc gia "vừa là đồng chí vừa là anh em" (đồng thời cũng là giữa kẻ ăn thịt người với nạn nhân tự coi mình là người điên theo mô tả của văn hào Lỗ Tấn), rồi những chuyện biểu tình của sinh viên Hồng Kông, v.v. - dù tác giả có tự đánh giá thế nào (trong vai “nhân vật dẫn chuyện” anh còn khoe: một hãng phim Hollywood mua bản quyền chuyển thể làm phim về chuyện bom dị bào) và các nhà phê bình chuyên nghiệp đáng kính có đề cao đến đâu, theo thiển ý của tôi, xét cho cùng thì chúng chỉ làm cái cái nền cho cuộc chiến giả tưởng giữa hai bên Việt - Trung, một cuộc xung đột vũ trang "bất khả kháng không phải lỗi từ Đại Việt", cái đó mới đáng tạo nên một bộ phim hoành tráng biết đâu hơn đứt Đại chiến Xích Bích của đạo diễn Ngô sếnh sáng (Ngô Vũ Sâm)? Cốt lõi của "bộ phim" này là hai văn bản "tự chế" của tác giả: "Lệnh phát động chiến tranh đại dương Nam Hải để dạy cho tiểu bá quyền Đại Việt bài học thứ hai" và "Lời kêu gọi của Ban lãnh đạo tối cao Đại Việt gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước", với độ dài ngót 50 trang sách! Ở văn bản gọi là của đầu não Trung Nam Hải phát ra, tác giả đã lột trần tất cả sự ngạo mạn, thói ngông nghênh coi trời bằng đĩa cùng dã tâm độc ác của chủ nghĩa bá quyền Đại Hán xuyên táo nhiều thế kỷ! Còn văn bản thứ hai của "phe ta" có xuất phát điểm của Pháp lý hiện đại và Nhân nghĩa truyền thống: "Luôn thủy chung với mình và với láng giềng, chúng ta mong muốn và thực thi bang giao bằng hữu, hòa bình với 1,3 tỷ nhân dân Trung” (tr. 294), “Nhưng chúng ta càng khiêm nhường, bọn bành trướng Trung càng lấn át, chúng ta càng hữu nghị thì càng bị chèn lấn" (tr. 305). Vâng, từ lý lẽ chân thực và đầy cảm xúc đó, tác giả đã thực sự hóa thân vào hồn thiêng sông núi mấy ngàn năm, khơi gợi một cách hiệu quả niềm tự hào dân tộc chân chính, thêm một lần đanh thép đòi chủ quyền Biển Đảo của Đại Việt; tác giả còn nhấn mạnh tới sức mạnh "Vũ khí lòng dân", "Đội quân nhân dân" khi "mặt nạ đã bị vứt xuống và gươm đã tuốt chĩa về Đại Việt" (tr. 298)...
Nhiệt huyết của tác giả hòa quyện với những biểu tượng kỳ vĩ chống xâm lăng của dân tộc ta; máu xương của bao lớp người Việt ngàn đời đổ xuống cho Độc lập - Tự do dân tộc trong giờ phút này trộn lẫn; và những trang viết không còn phân biệt đâu là lời hịch của Ban lãnh đạo tối cao Đại Việt, đâu là lời thề khắc trên báng súng của các anh hùng liệt sĩ trận Vị Xuyên, đâu là giọt nước mắt của người anh hùng nhỏ tuổi Trần Quốc Toản, đâu là lời kết án hùng hồn của tác giả trước tội ác "Trời không dung, Đất không tha" của bọn bá quyền khát máu... Tất cả tạo nên một bản hợp xướng, một văn bản "đa thanh" mà trong đó, "tính chất kêu gọi sống động với tất cả những gì mà anh ta nghĩ đến và nói với" - như M. Bakhtin đã viết(3). Có điều, hầu hết những trang viết trên đều mang “tính chân thực của ngôn ngữ” - và chúng đã vươn tới “tính chân thực của thông báo” trong “quá trình tìm kiếm chân lý của nghệ thuật”, như nhà ký hiệu học Nga kiệt xuất Iuri Lotman từng đòi hỏi.(4) Cũng chính “tính chân thực của thông báo” đó kết hợp với sức mạnh tinh thần của tác giả - cái sức mạnh cho anh đủ dũng khí tạo ra một bản "trường ca văn xuôi bi-hài-hùng" hết sức kịp thời, đã giúp Trung-Việt Việt-Trung trở thành một "bách khoa toàn thư" đầu tiên về "mối quan hệ ngàn năm, kỳ khu và éo le có lẽ nhất trái đất" (tr.7), hơn thế, trở thành một lời kêu gọi, một lời hiệu triệu bi thống thốt lên từ lòng Đất Mẹ: "Đồng bào ơi! Dù ở đâu trên bốn biển năm châu, dân Việt luôn coi đất Việt trời Nam hình chữ S là quê hương duy nhất. Người Việt chân chính sẽ không lợi dụng Tổ quốc lâm nguy để chống phá nhau chỉ vì quyền lợi phe phái, mưu đồ cá nhân... Phải giữ Biển Đông hỡi đồng bào ơi!" (tr. 307)
Dường như toàn bộ cuốn tiểu thuyết Trung-Việt Việt-Trung cố nhằm minh chứng cho cái điều mà nhà nhân chủng học người Pháp Gustave Le Bon đã từng nói từ cuối thế kỷ XIX: "Số phận của mỗi dân tộc nằm trong chính nó, chứ không phải trong những hoàn cảnh bên ngoài. Tất cả những gì mà người ta có thể đòi hỏi ở một chính phủ là sự biểu hiện của những tình cảm, ý tưởng của dân tộc mà chính phủ đó được cử ra để cai trị; và sự tồn tại của nó chính là hình ảnh của một dân tộc"(5).
Và đó cũng là mong mỏi, là khát vọng của cả một dân tộc chịu quá nhiều đau thương bất hạnh hiện đang đứng trước cơ hội sống còn mà chàng Đỗ Quyên chỉ chưa đầy 4 trang sách đã phải 3 lần thốt lên lời kêu gọi thống thiết: "Đây, thời điểm quyết định vận mệnh dân tộc Việt!".
Hà Nội, đầu tháng 6/2016
Đạo diễn, Nhà văn Mai An Nguyễn Anh Tuấn
___________________________
1. Đỗ Quyên, Trung-Việt Việt-Trung, Nxb Người Việt Books, 2016. Các trích dẫn trong bài có ghi số trang là từ sách này.
2. Khâu Chấn Linh, Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, Nxb Văn Học, 2001, tr. 14.
3. Mikhail Bakhtin, Những vấn đề thi pháp Ðôxtôiepxki, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, Nxb Giáo Dục, 1998, tr. 245.
4. Iuri Lotman, Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr. 38.
5. Gustave Le Bon, Những quy luật tâm lý về sự tiến hóa của các dân tộc, Nguyễn Tiến Văn dịch, Nxb Thế Giới, 2015, tr. 140.