Âm Hán Việt
Thập niên ma nhất kiếm
Phong nhẫn chính quang mang
Sát khí hoành Ngưu đẩu
Nghiêm uy động tuyết sương
Nhập Tần kỳ bất khả
Qui Hán diệc vị hoàng
Hồ hải không phiêu đãng
Tráng chi thành đại cuồng
Dịch thơ:
Mười năm mài một kiếm thôi
Kiếm quang sắc bén phân đôi chính tà
Kiếm khí trùm khắp Tinh Hà
Thần uy kiếm dựng động tòa tuyết sương
Nhập Tần kiếm hiến Tần vương
Qui Hán e kiếm cùng đường phận tôi
Phiêu thân bạt kiếm một thời
Hùng tâm hóa kiếm hát lời cuồng ca
GIÃ NHÀ LÊN KINH
Âm Hán Việt
Thủy lưu hà thái cấp
Hành nhân ý dục trì
Quần sơn phân ngạn tẩu
Nhất trạo phách phi yên
Sa nhạn nhân như tống
Du ngư cấp dục truy
Vân gian Hương lĩnh thụ
Thái bán dĩ tà huy
Dịch thơ:-
Nước theo giòng chảy chảy mau
Người chưa đi đã nao nao nhớ nhà
Đôi bờ núi chạy về xa
Mái chèo khua nước giang hà khói sương
Bên bờ cánh nhạn tiễn đường
Dưới sông cá lội như dường theo đi
Cổ thụ đã nhuốm tà huy
Đỉnh Hương sơn đã mờ vì bóng mây
Âm Hán Việt
Nhất giang yên thủy tĩnh
Khách tứ mãn quan hà
Phong trọng chinh phàm cấp
Sương thâm khứ nhạn tà
Hàn sơn lai dạ khánh
Viễn phố xuất ngư ca
Kim tịch do như thử
Minh triêu thả nại hà
Dịch thơ:-
Một giòng mây nước bình yên
Mà lòng khách nặng ưu phiền quan san
Gió đưa mạnh cánh buồm căng
Sương mờ nghiêng bóng nhạn càng buồn hơn
Chuông chùa đêm núi Hàn sơn
Tiếng hò ra bến phía thôn vạn chài
Còn nghe gà gáy đêm nay
Ngày mai rồi sẽ chẳng hay thế nào
Âm Hán Việt
Độn thế tòng Y dưỡng nhất chân
Bất tri vi phú khởi tri bần
Lâm tuyền dục liễu tam sinh đạo
Luân bột nan từ vạn lí thân
Bán đảm yên hà lao dịch mã
Mãn sơn viên hạc tống chinh nhân
Hư danh tự sủy vô tha bí
Hoàng khủng sơ cuồng đối thánh quân
Dịch thơ:-
Trốn đời làm thuốc cứu đời
Giữ chân tâm để dạo chơi tháng ngày
Làm giàu vốn đã chẳng hay
Bần hàn một nếp vẫn tày xưa nay
Núi rừng đã nhuốm thơ say
Suối trong đã rửa sạch tay một giòng
Nào ngờ lòng lại vương lòng
Nên thân lại vướng vào vòng lợi danh
Lại ngàn dặm đến kinh thành
Nặng thân ngựa trạm nhọc nhằn quan san
Yên hà nửa gánh chinh nhân
Chim kêu vượn hú núi ngàn tiển đưa
Hư danh đã biết chưa chừa
E thánh quân rõ tài thua nết cuồng
Hết đi thuyền, lại rời thuyền lên bờ. Đây là những bài thơ"dọc đường lữ hành" của Ông đầy nỗi ngổn ngang lòng. Tức cảnh sinh tình. Ông ứng khẩu ngâm thơ, lại có lúc đề thơ lên vách đá.
Âm Hán Việt
Ỷ sơn cương tác tự
Bàng thạch giá sơn chung
Tế vũ miêu xuân thảo
Minh hà lạc vấn tùng
Nhàn ngâm tàn chiếu lý
Điểu ngữ loạn lâm trung
Phụng chiếu xu hành dịch
Cần lao tiếu Lãn Ông
Dịch thơ:
Dựa vào núi cứng làm chùa
Gác chuông vách đá chẳng thua vững vàng
Mưa ru cỏ xuân mang mang
Ráng chiều vương vấn mấy hàng tùng xanh
Ngâm thơ giữa cảnh chiều tàn
Tiếng chim hót giữa núi ngàn rộn quanh
Phụng chiếu Lãn Ông lâm hành
Cần mẫn leo dốc cười chăng Ông Lười
Âm Hán Việt
Hoan, Ái phân cương địa
Quần sơn hỗ tống nghinh
Tiều ca vân lộ xuất
Điểu ngữ cốc phong sinh
Phục thạch đương đồ lập
Giao thiên đoạn bích hoành
Hành nhân thuyết hương tứ
Duy ngã thướng thần kinh
Dịch thơ:
Đất quê Hoan, Ái xa rồi
Thay nhau mấy dãy núi đồi tiễn chân
Giọng tiều phu hát nghe gần
Mây che đường núi tiếng chân đã kề
Gió từ u cốc thổi về
Chim kêu ríu rít bốn bề vọng xô
Ngổn ngang đá lập trận đồ
Hoành Sơn một dãy nhấp nhô tiếp trời
Giọng quê nghe rõ từng lời
Giữa quan san rộn tiếng mời hồi hương
Cùng đi đèo núi mù sương
Duy mình ta phải ngược đường lên Kinh
Âm Hán Việt
Hải ngạn kinh hành khách
Thương mang vạn lý thu
Ba đào chấn ngao cực
Vân vụ khởi thiên xu
Dục nhật thiên trùng lãng
Tùy phong nhất diệp chu
Cổ nhân ta họan hải
Thâm ý tại trầm phù
Dịch thơ:
Biển bờ nỗi khách sợ thay
Xanh muôn vạn dặm gọi ngày vào Thu
Mây vần vũ nẻo tuyệt mù
Sóng rung cõi đất, đất như rùng mình
Thuyền một lá giữa sóng kình
Sóng cao muôn trượng che hình triêu dương
Nổi, chìm, bể hoạn bất thường
Cổ nhân ví bởi khó lường ý sâu
Âm Hán Việt
Nhất bách lục phong lam vụ mê
Nhất tòng tam cấp thướng vân thê
Yên hoàn trầm lục hoành thiên bắc
Loa kế phù thanh phó hải tê
Chử đánh sương hoa khuynh phấn hãn
Ngâm thi u điểu hướng nhân đề
Mỗi phùng thắng cảnh vi thi lụy
Khiển quyển thời dư thủy quá khê
Dịch thơ:
Núi lam trăm đỉnh mù sương
Theo ngàn bậc đá lạnh đường vào mây
Vắt ngang trời Bắc khói dày
Núi xanh chóp xoáy về Tây biển già
Sương hoa, nghiêng phấn pha trà
Chim theo người, hót giọng ngà, ngâm thơ
Vấn vương vì cảnh như mơ
Ngồi bên khe suối hàng giờ chưa đi
VÀO TRỊNH PHỦ
Khi được triệu vào Trịnh phủ, khung cảnh làm Cụ nghĩ bụng: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong Cấm thành mình cũng đã từng biết...Bước chân đến đây mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thật khác hẳn người thường( Giọng văn của Cụ có vẻ mỉa mai cảnh lố lăng hơn là kinh ngạc trước vẻ đẹp)
Âm Hán Việt
Kim qua vệ sĩ ủng thiên môn
Chính thị Nam thiên đệ nhất tôn
Họa các trùng lâu lăng bích hán
Châu liêm ngọc hạm chiếu triêu đôn
Cung hoa mỗi tống thanh hương trận
Ngự uyển thời văn Anh vũ ngôn
Sơn dã vị tri ca quản địa
Hoảng như ngư phủ nhập Đào Nguyên
Dịch thơ:
Cửa trời vệ sĩ đứng canh
Trời Nam đệ nhất xứng danh đây là
Trong cung hương sực nức hoa
Ngoài vườn Anh Vũ réo ca chuyện trò
Lầu cao, bích họa vẽ to
Rèm châu dát ngọc, cửa tò vò nhung
Dân sơn cước nhập cấm cung
Hoảng như ngư phủ ngẫu phùng Đào Nguyên
* Cụ đâu phải dân sơn cước! Rõ ràng Cụ thấy cảnh lố lăng của Trịnh phủ, Cụ viết:-Tôi bèn ngâm một bài thơ để ghi nhớ(không phải để ca tụng). Do đó tôi đã cố í sử dụng nhưng từ "sực nức", "réo ca", "vẽ to", để chuyển dịch thơ của Cụ.