Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

NHÂN DÂN

Hoàng Quý
Chủ nhật ngày 12 tháng 6 năm 2011 7:07 PM
(Trích trường ca “Đối thoại trắng”)

Nhân dân tôi!
Nhân dân cô đơn
Nhân dân khiêm cung
Kham nhẫn và dịu dàng
Người là nước mà luôn thiếu khát
Người như lúa khắp ruộng nương nước Việt
Những hạt lúa dại vụng
Ấm và xót
Ngoi trên nắng
Dạt trên nước
Xác cháy trên tay chai
Xướp ráp tận ruột
Lấm láp và tinh tươm
Thơm tho sen súng
Giấc mê mẩn người
Thảng như ca dao
Xum xuê như cổ tích

Ôi! Nhân dân kiêu dũng của tôi
Nhân ái và thật thà
Cởi mở và bồng bột
Người nâng thuyền mà nổi trôi như lá
Người bộc trực, tuyềnh toàng
Cả nghe và hiếu thiện
Tin đạo mà chở đạo
Đạo rối
Thuyền chao
Qua mỗi cửa bão giông lại đắm đuối nâng thuyền
Néo chèo theo lái
Bến yên bình một giấc tít xa
Mà người có bao giờ không nhẹ dạ
 
Khi Tổ quốc lâm nguy
Người mài gươm tuốt giáo
Rèn ngựa sắt
Đúc trống đồng
Lớp lớp hóa thành Ông Gióng
Giáo gươm gãy vơ cuốc thay rìu
Gậy sắt gãy nhổ tre làm chiến cụ
Chả kể máu xương thương tích đầy mình
Bốn phía
Người là lá chắn!
Người thích những làn chèo lịm ngọt
Khúc lưu thủy lếnh loang vời vợi gió đồng
Một luyến nam ai, một láy nam bằng
Một vuốt chói trên ngón đờn tài tử
Những lời hằng yêu
Xanh như mạ
Dễ yếu đau như mạ
Chia sớt
Nhớ thương
Như kênh rạch chịt chằng
Nảy nót tóc đuôi gà yếm thắm
Váy túm tó xả buồn mẹ Đốp
Oan đau ẩn Thị Kính, cô Màu
Khi vụng trộm lơ lác Tuần Ty
Lúc cả ghen chiết chì Đào Huế
Thương trách ròng ròng men ủ sáu câu
Xem nỗi người phôi pha như đất!

Khi nhân dân tôi đắp lũy Sông Cầu
Vua xuống lũy như dân
Khi nhân dân tôi họp Hội Diên Hồng
Vua ngồi giữa nhân dân
Những rừng cọc Bạch Đằng
Như thế đứng ngàn năm vát nhọn
Bao đạo binh hung hăng
Bao chiến thuyền dữ tợn
Tan chìm
Và tả tơi!
Rồi vàng son lại cao thấp vàng son
Vuốt cọp vuốt rồng nào chả nhọn
Thương, sĩ náu kinh kỳ cửa hẹp
Phượng, nghê thiêng đội nến sân chầu
Nhân dân nổi nênh theo dòng như bọt
Nắm gạo trong bồ giật mình vì chuột
Hoa mướp vàng
Rơm rạ cũng vàng ngây
Phên rách tháng ba rào thưa ngày tám ...

Tôi đi tìm hồn cốt dân tôi trong mảnh gốm mảnh ghè
ẩn dưới bùn đất ấm
Dưới tán cây
Trong đá cứng
Ven núi đồi khai mê
Sau lớp lớp phù sa thiên cổ
Nâng ngắm
Tìm soi
Cố hiểu những tín xác mờ cũ
Tôi thở cùng đất đai từ mảnh tước sứt vỡ
Lặng trước thạp đồng in dấu quần hôn
Những tượng cóc cầu mùa
Bầy chim lạc mỏ tên không biệt phân cao thấp
Lưỡi cuốc đá, lao dài
Mũi tên đồng, hái sắt
Hùng vĩ binh thuyền vút vành trăng khuyết
Đi băng băng qua hoa sóng kỷ hà
Để chạm mặt thuở hoang khai  Tiên Tổ
Xin - người - hãy - nhận - ra – tôi!
Tôi! Đứa con chắp nối của người
Nở từ thời trăm trứng
Da vàng
Mắt hạnh
Đen tóc
Và đỏ trầu
Lá chuối hơ mềm như kén tằm bọc ủ
Mẹ vẫn lên rừng
Cha vẫn đi khơi
Giết Giao Long và trồng khoai lúa
Vẫn hú gọi nhau ấm cả triền sông đỏ
Cần mẫn
Âu lo
Khi tùng tiệm
Khi cởi lòng phơi dạ
Quen sống vì người
Và, đắm đuối vì nhau!

Hạt lúa cháy than
Đã hoá thạch từ Phùng Nguyên, núi Đọ
Giấc nguyên lúa
Tín xác gửi người sau!
Sẽ hạnh phúc tột vời có một lần hái lượm
Giữa bạt rừng rợp bóng Mẹ Tiên
Thoả sức với Cha Rồng xuôi bể
Xăm kín mình rồi kéo mặt trời lên
Sẽ run rẩy ướm gậy đồng nón sắt
Vùi cát Chử Tiên xem tắm Tiên Dung
Thư thái rước Bánh Tròn Vuông Trời Đất
Theo Lang Liêu dâng tiến Vua Hùng
Nhưng giấc mơ
Giấc mơ lúa thiêng
Trôi cứ chớm ban mai là hoá thạch
Một giấc hiền thục đất
Trải bốn ngàn năm sinh…