Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

LÊ HỒ QUANG VÀ VẤN ĐỀ ĐỌC THƠ HIỆN ĐẠI

Lê Hồ Quang
Chủ nhật ngày 9 tháng 1 năm 2022 10:49 AM




Lời Dẫn của Nguyễn Đức Tùng:

Nhà phê bình Lê Hồ Quang, từ Đại học Vinh, gởi cho chúng tôi bài tiểu luận mới đây của chị. Lê Hồ Quang là một nhà giáo, tiến sĩ văn học, được nhiều người biết, với những bài viết về thơ và văn xuôi Việt Nam đương đại. Lối viết sáng sủa, ngắn gọn, duyên dáng của chị giúp người đọc, nhất là người muốn tìm đến thơ đương thời, hiểu rõ hơn về quá trình đọc thơ, hiểu và cảm xúc, thưởng thức và nhận xét, về tư duy thơ, về cách tiếp cận một bài thơ cụ thể.

Tôi nghĩ, đọc với tinh thần trách nhiệm cần đến một thái độ đọc mạnh mẽ, nhạy bén, nhưng sau tất cả, vẫn là sự rung động chủ quan. Thơ hiện nay chú ý nhiều hơn đến khía cạnh con người của điều kiện sống trong thế kỷ mới, một điều kiện sống đầy biến động và bất an, bạo lực xã hội và bạo lực gia đình; tuy vậy, như bao giờ cũng vậy, được nâng đỡ bởi tình yêu, sự phản kháng của lương tâm, và những giá trị vĩnh hằng làm nên dân tộc và con người.

Có lẽ, mơ ước của một bài thơ trữ tình là âm nhạc và ý tưởng, hai trong một, làm cho thời gian dừng lại, vượt ra khỏi thời gian. Một bài thơ hay là bài thơ được tìm thấy, đâu đó, giây lát, hơn là được kiến tạo bởi tác giả.

Sau cùng, người đọc hôm nay là người can dự. Công việc của các nhà phê bình là hết sức cần thiết, nhất là trong tình cảnh của thơ Việt chúng ta, sáo nhiều hơn mới, mới mà dở nhiều hơn mới mà hay, viết mà không ai đọc, đọc mà không ai phê bình, nhưng cũng chỉ là những bản hướng dẫn ban đầu, và chính bạn, người đọc, phải chạm tay vào, như ngón tay trên dây đàn, lúc ấy lộ ra, nhiều thứ.

Tôi muốn chép lại những lời này của George Martin, để tặng những người đọc thân yêu của tôi, và tặng Lê Hồ Quang, người bạn của tôi: “Một người đọc sách sống hàng ngàn cuộc đời trước khi chết. Một người không đọc sách sống một cuộc đời.”

Và, người làm thơ cũng là người đọc. Trước hết là người đọc.

Nguyễn Đức Tùng

VẤN ĐỀ ĐỌC THƠ HIỆN ĐẠI

Lê Hồ Quang

Với tôi, đọc thơ là một sở thích cá nhân. Trong tư cách độc giả, tôi không tìm kiếm điều gì hơn ngoài việc nhờ thơ chia sẻ, giải tỏa tâm trạng, cảm xúc của mình. Cái hay của thơ, do vậy, được định nghĩa bằng việc nó thiết lập nhanh hay chậm sự đồng cảm, mức độ sâu sắc của ẩn dụ và khả năng khêu gợi cảm giác, cảm xúc nhờ vào những từ “hay”, “đắt”, nói theo cách giáo khoa thư. Nhưng càng ngày, cùng với việc phải tìm hiểu sâu hơn về thơ, tôi càng phải đối mặt nhiều hơn với những câu hỏi. Bài thơ này có hay không? Câu hỏi quen thuộc ấy hóa ra lại là khởi đầu của rất nhiều câu hỏi phức tạp khác. Nhưng thế nào là một “bài thơ hay”? Và hơn thế nữa. Thế nào là thơ? Đâu là ranh giới phân định cái gọi - là - thơ và cái không - phải - thơ? Cái gì thực sự tạo nên “tính thơ”?

Vấn đề càng nảy sinh khi ta tiếp xúc với các hiện tượng cụ thể, nhất là thơ hiện đại. Có lẽ chưa bao giờ quan niệm về thơ/ tính thơ lại xa nhau đến thế. Cùng với điều đó, có quá nhiều cách đọc khác nhau, thậm chí mâu thuẫn gay gắt, khiến câu trả lời về nghĩa/ ý nghĩa của tác phẩm càng khó tìm được điểm chung. Trước thực tế ấy, tôi cho rằng, muốn đọc hiệu quả, cần có tư duy đọc hiện đại. Đấy là một mô hình tiếp cận và lý giải văn bản vừa có điểm tựa lý thuyết vừa gắn liền trải nghiệm đọc cụ thể, giúp đọc đúng tác phẩm. Về điều này, xin được nói thêm như một lưu ý nhỏ về phương pháp luận, dù vấn đề không mới. Ta biết rằng giữa tư duy độc giả và tư duy nghệ sĩ không phải lúc nào cũng gặp nhau, ngay cả trong trường hợp người viết đồng thời là người đọc. Trong khi một số nhà thơ thường có xu hướng đồng nhất mình với nhân vật trữ tình thì độc giả có thể chỉ quan tâm đến tác phẩm như một cấu trúc thẩm mĩ tự thân. Do đó, sự “lệch pha” giữa sự viết (của nhà thơ) và sự đọc (của độc giả) là điều hiển nhiên. “Đọc sai” trong trường hợp này chỉ có nghĩa là đọc không đúng với “thông điệp” mà tác giả có ý thức gửi gắm (và có thể được tác giả xác nhận), nhưng hoàn toàn không sai nếu nhìn từ quan niệm đọc - diễn giải tác phẩm, một khi sự diễn giải đó là có cơ sở.

Dĩ nhiên, một tư duy đọc hiện đại và cởi mở không dễ có ngay từ đầu. Nó có thể hình thành từ những tri thức lí thuyết khi ta học/ đọc, và chắc chắn sẽ thay đổi, mở rộng khi tiếp xúc với các hiện tượng thơ đa dạng. Điều đó giúp ta dần hình thành những nhận thức, quan niệm ngày một sâu sắc và rộng rãi hơn về thơ. Đương nhiên, cùng với thơ là nhiều vấn đề khác nữa.

Cũng như phần lớn bạn đọc, trước đây, tôi thích thơ lãng mạn, thuộc nằm lòng nhiều bài thơ viết theo thi pháp truyền thống, nghĩa là truyền cảm trực tiếp và giàu tính nhạc. Việc tiếp xúc với nhiều hiện tượng thơ mới, khó, buộc tôi dần phải thay đổi, mở rộng quan niệm thẩm mĩ và mĩ cảm cá nhân. Điều này không phải không khó khăn. Trong quá trình đọc, tôi thường xuyên phải dừng lại nghi ngờ, phản bác, chất vấn chính mình: Đây/ thế này mà là thơ ư? Liệu mình đã đọc đúng chưa? Đâu là ranh giới giữa một bên là đọc đúng và bên kia là sự suy diễn tùy tiện? Đâu là căn cứ, giới hạn của việc đọc - diễn giải? v.v. Đọc thơ, như vậy, đồng nghĩa với việc phải liên tục đối diện với những câu hỏi mang tính phương pháp luận đầy hóc búa.

Theo tôi, thơ (trong sự phân biệt với văn xuôi), phải đảm bảo những yếu tính thể loại của nó, đó là tính xúc cảm, tính nhạc, và sự hàm súc, khêu gợi. Một bài thơ hay, có giá trị, ngoài cấu trúc thẩm mĩ tự thân, nó phải có khả năng gây ám ảnh, xúc động. Nhưng bên cạnh tính thể loại, thơ còn có tính loại hình lịch sử. Trên thực tế tác phẩm, cái gọi là yếu tính loại hình này cũng biểu hiện đậm nhạt khác nhau. Một khi có sự tham gia của người đọc, tiêu chuẩn về thơ và tính thơ, như đã nói trên, càng trở nên khác biệt, thậm chí đối lập gay gắt.

Bám sát vào văn bản, lấy văn bản làm căn cứ chính để lí giải, đánh giá, đó là một nguyên tắc đọc của tôi. Khi tiếp xúc với văn bản tác phẩm, tôi thường chú ý mấy điểm sau đây.

Về hình thức. Hình thức của thơ bắt đầu từ ngôn ngữ. Tôi đặc biệt chú ý đến cách tác giả sử dụng từ ngữ, hình ảnh, các biện pháp tu từ… Đồng thời, tôi quan tâm tới cấu trúc văn bản, bao gồm các yếu tố nội tại như câu - đoạn - bài - tứ thơ, đến cấu trúc chỉnh thể lớn hơn, bao gồm cả những yếu tố ngoài văn bản như tác giả, bối cảnh văn hóa, lịch sử... Chi phối những yếu tố kể trên là nhãn quan ngôn ngữ của tác giả. Không thể bỏ qua điều này khi phân tích, lí giải hình thức văn bản.

Về nghĩa/ ý nghĩa. Như đã nói trên, nghĩa/ nội dung không phải là yếu tố có sẵn, tồn tại ngoài văn bản, được áp cơ học vào văn bản. Nó nằm trong văn bản, trong cấu trúc ngôn ngữ, hình tượng, ở dạng tiềm năng và được phát hiện và làm phong phú thêm bởi người đọc. Trong quá trình đọc, trên cơ sở phân tích các dấu hiệu hình thức, tôi đồng thời cố gắng diễn giải lược đồ nghĩa/ ý nghĩa của nó. Cùng với việc đọc, sửa chữa, bổ sung, mở rộng…, lược đồ ấy sẽ dần đầy đặn và thuyết phục hơn.

Bên cạnh những thao tác phân tích lí trí, tôi học cách tin vào trực giác và dùng trực giác để đến gần hơn với tiếng nói của thơ. Đôi khi, một bài thơ bị xem là “khó hiểu”, “khó đọc” với nhiều người vẫn có thể đánh thức trong tôi một cảm xúc đặc biệt nào đó. Đó không phải là thứ cảm xúc trực tiếp, được giãi bày một cách rành mạch, tạo nên sự đồng cảm ngay lập tức như thường thấy ở thi phẩm lãng mạn, nhưng vẫn là cảm xúc thơ và không phải không gây cảm động tương tự. Dĩ nhiên, điều này đòi hỏi mức độ cộng cảm khá sâu giữa văn bản và người đọc. Sự kết nối, liên thông ấy nằm trong “mã đọc” nhiều khi khá cá biệt và riêng tư.

Xuất phát trên cơ sở văn bản, vận dụng linh hoạt nguyên tắc tiếp cận, lý giải theo hướng thi pháp học, theo tôi, là cách đọc thơ khá hiệu quả. Tôi sẽ nói rõ hơn về một số biện pháp, cách thức tiến hành cụ thể.

- Đọc kỹ văn bản. Văn bản ngôn từ là trạm đọc đầu tiên và căn cứ quan trọng nhất của quá trình đọc thơ. Đọc và cố gắng ghi nhớ những cảm giác, cảm xúc trực tiếp, tức thì khi tiếp xúc với văn bản. Góp nhặt chúng lại, khái quát thành ấn tượng chung, chẳng hạn thích/ không thích; hay/ dở; vui/ buồn/ buồn cười... Triển khai lý giải bằng cách đặt câu hỏi, đặc biệt là loại câu hỏi vì sao. Đừng coi thường trực giác. Nếu bạn đã có kinh nghiệm và tri thức đọc, ấn tượng trực giác của bạn thường khá chính xác. Nó có thể giúp bạn nhanh chóng định vị đối tượng mà không cần tới sự can thiệp sâu của các thao tác phân tích lí trí.

- Phân tích cách tổ chức văn bản. Khi đọc, tôi quan tâm đến tên bài thơ như một chỉ dẫn, gợi ý. Thông thường, đó sẽ là chỉ dẫn về chủ đề hoặc hình tượng trung tâm. Nó kết nối với toàn bộ cấu trúc văn bản ở phía sau, từ các yếu tố như lời đề từ, câu chữ, hình ảnh, biểu tượng, khổ, đoạn, ý thơ, tứ thơ... Tôi đặc biệt chú ý tới sự lặp lại của một số dấu hiệu hình thức. Chúng không ngẫu nhiên (trừ khi đó là lỗi trong diễn đạt - lỗi lặp). Chúng có thể liên quan tới những vấn đề quan trọng hơn, như chủ đề, cảm hứng, quan niệm… Đó là một dấu hiệu thẩm mĩ cần để mắt. Hãy đặt các câu hỏi về chúng.

- Khai thác các yếu tố bên ngoài, có mối liên quan với văn bản. Các yếu tố ngoài văn bản khá đa dạng. Đó có thể là những thông tin về tác giả (tiểu sử, sự nghiệp, quan niệm sáng tạo...) hoặc bối cảnh lịch sử - văn hóa, văn học tương ứng. Bối cảnh này cung cấp căn cứ để ta hiểu sâu thêm về tác phẩm, định vị chính xác hơn về giá trị của nó. Hoặc đó là các lý thuyết văn học, đóng vai trò điểm tựa phương pháp luận, cung cấp, gợi ý, hỗ trợ hướng tiếp cận, lý giải văn bản… Dĩ nhiên, chỉ nên sử dụng nếu ta thấy chúng có mối liên hệ với văn bản và việc sử dụng các yếu tố này thực sự giúp ích cho việc đọc hiểu văn bản.

- Ghi chép lại. Ghi chép là một cách để chính xác hóa những ấn tượng, nhận thức nảy sinh trong quá trình đọc. Đồng thời, chính trong quá trình ghi chép, nhiều ý tưởng mới sẽ xuất hiện, khiến việc khám phá văn bản trở nên hứng thú. Viết và đọc là hai hoạt động tương tác, hỗ trợ lẫn nhau. Tôi tin việc thực hành đọc và viết thường xuyên sẽ giúp tăng cường kiến thức, kĩ năng và hình thành phương pháp tư duy cần thiết.

Bây giờ, tôi sẽ lấy một vài ví dụ trong thơ Việt Nam hiện đại để làm sáng tỏ một số điều ở trên. (Xin nói rõ, do giới hạn bài viết, những minh chứng chưa đầy đủ và có khi tôi buộc phải “đẽo chân cho vừa giày”). Một bài thơ có thể gây chú ý từ những yếu tố, phương diện nghệ thuật khác nhau. Một trong những yếu tố đó là biểu tượng.

Ta hãy bắt đầu bằng một bài thơ của Lê Đạt:

Bóng chữ

Chia xa rồi anh mới thấy em

Như một thời thơ thiếu nhỏ

Em về trắng đầy cong khung nhớ

Mưa mấy mùa

Mây mấy độ thu

Vườn thức một mùi hoa đi vắng

Em vẫn đây mà em ở đâu

Chiều Âu Lâu

Bóng chữ động chân cầu

Hãy đặt mình vào vị trí của người đọc. Sự tiếp xúc với bài thơ chắc chắn sẽ làm nẩy sinh hàng loạt câu hỏi, chẳng hạn: Bóng chữ là gì? Bóng chữ có liên quan gì đến chủ đề và hình tượng trong bài thơ này? Tại sao “chia xa rồi anh mới thấy em”? Tại sao lại là “như một - thời - thơ - thiếu - nhỏ” mà không phải là “thời thơ ngây”, “thời thiếu nữ”, “thời thơ nhỏ”, những cách diễn đạt có nội dung tương tự nhưng quen thuộc và rõ nghĩa hơn?... Rõ ràng đó là cách “làm chữ” có chủ ý của Lê Đạt. Một mặt, tác giả tập trung vào hình tượng Em (đúng hơn là mối quan hệ anh - em) và thu hút sự chú ý của độc giả vào motip chủ đề tình yêu đã mất. Motip này gợi ra khá nhiều liên văn bản, chẳng hạn Đề tích sở kiến xứ của Thôi Hộ, Truyện Kiều của Nguyễn Du hoặc Cầu Mirabeau của Guillaume Apollinaire. Mặt khác, sự lặp lại cố ý của của cấu trúc hình ảnh “bóng chữ” (ở tên bài thơ và ở dòng kết thúc) đã bẻ lái cách hiểu bài thơ theo hướng mới: câu chuyện về Chữ, về Bóng Chữ - “phần tiền kiếp không được hóa giải của chữ… như cái bóng con thuyền Trương Chi thiếu nợ hò khoan mãi trong lòng chén nước Mỵ Nương” [1]. Đó là câu chuyện tình yêu sáng tạo của Lê Đạt.

Biểu tượng được xây dựng bởi nhiều chi tiết, yếu tố, hình ảnh trong tác phẩm. Nó có thể được cấu trúc bằng thủ pháp lặp hoặc tương phản, đối lập, hoặc bằng sự tập trung của các liên tưởng, so sánh... Nó có thể được báo trước trong tên của bài thơ, chẳng hạn Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), Áo trắng (Huy Cận), Người về, Ngựa biển (Hoàng Hưng), Cõi lặng (Nguyễn Khoa Điềm), Ánh trăng (Nguyễn Duy), Người đàn bà ngồi đan (Ý Nhi), Sóng, Thuyền và Biển (Xuân Quỳnh), Tiếng địch, Củi lửa (Dương Kiều Minh), Hạc trắng (Nguyễn Lương Ngọc), Cây Ánh sáng (Nguyễn Quang Thiều)... Dĩ nhiên, biểu tượng trong những loại hình thơ khác nhau có đặc điểm khác nhau. Biểu tượng trong thơ tượng trưng thường trùng phức về nghĩa và khó lý giải hơn.

Thơ gây chú ý bởi những cách tổ chức ngôn từ và hình ảnh, nhất là khi viết theo lối siêu thực và đương nhiên đây là một điểm sáng thẩm mĩ cần khai thác. Thông thường, trong thơ siêu thực, giữa các câu chữ có sự đứt mạch rất rõ. Các hình ảnh thường hiện lên như trong những ảo giác, những cơn mơ phi thực, lạ lùng. Đôi khi kỳ dị, dữ dội, mê hoặc, khó có thể cắt nghĩa. Ví dụ:

- Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa

Vỡ tan thành vũng đựng vàng khô

Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy

Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra

(Say trăng - Hàn Mặc Tử)

- tôi buồn khóc như buồn nôn

ngoài phố

nắng thủy tinh

tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ

thanh tâm tuyền

buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường

(Phục sinh - Thanh Tâm Tuyền)

- Những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

Li la li ta li la

Đi lang thang về miền đơn độc

Dưới vầng trăng chuếnh choáng

Trên yên ngựa mỏi mòn

(Đàn ghi ta của Loc- ca, Thanh Thảo)

- Bây giờ

Em trụi trần dưới vòm cây tối đen

Ngực đồi trăng ướt đẫm

Tay chập chờn lửa sáng

Nhưng đã muộn rồi ôi muộn lắm

Vực sâu đã mở ra

Chôn cả lời trăng trối của mùa thu

Một chiếc lá khổng lồ đỏ thắm

(Bây giờ - Lưu Quang Vũ)

- Khắp nơi

những đôi mắt

dính trên cổ những người không có mặt

những tiếng kêu

phát ra từ miệng những người không có cổ

những bàn chân

càng bước càng lún sâu vào đất...

(Giấc mơ của Kafka - Trương Đăng Dung)

Dĩ nhiên rất cần chú ý đến chủ đề của tác phẩm. Đấy là một phương diện nghệ thuật quan trọng. Đôi khi chủ đề được thể hiện ngay trong tên bài thơ, nhưng như thế chưa đủ. Cái tên chỉ là một gợi ý, một chỉ dẫn ban đầu. Ta cần đọc sâu văn bản để tìm ra cái chủ đề được cấu thành trong/ trên cấu trúc bài thơ. Ở ngoài cấu trúc văn bản, mọi chủ đề đều như nhau, không có sự hơn kém về giá trị. Do đó, cần chú ý tới cách xử lý chủ đề trong từng tác phẩm. Nó gắn liền với nhãn quan và bút pháp riêng của tác giả.

Ta hãy lấy bài thơ của Pháp Hoan viết về một chủ đề có tính phổ quát - sự sống và cái chết, để xem xét điều này rõ hơn.

Mùa xuân sau một cái chết

Một bông hoa đang nở ra trên cánh đồng

một bông khác nở ra từ kẽ đá

một bông khác trên ngọn đồi xa lạ

Trên nghĩa trang lạnh giá

bông hoa đầu tiên cũng đang hé nở

một bông khác

và một bông khác nữa

Và kìa sau tấm lưng tôi hàng loạt bông hoa thi nhau nở rộ

chúng làm tấm áo choàng của tôi nhanh chóng phồng lên

như cánh buồm trước gió

Rồi từ cuống họng tôi những bông hoa chui ra

những bông hoa khác từ đôi mắt tôi

từ đầu những ngón tay

từ đôi tai

từ lồng ngực...

chúng đang chiếm đoạt lấy thân thể tôi

chúng đang làm tâm tư tôi trở nên bấn loạn

Bất chợt tôi nhớ ra là mình đã qua đời vài năm trước đó

và tấm thân bây giờ là mảnh đất màu mỡ cho đám hoa lá mùa xuân

Bài thơ được triển khai từ điểm nhìn của kẻ đã chết, đã nằm dưới đất, nơi thân xác và đất đen hòa làm một và đang nhìn ngắm/ mô tả về đời sống. Có thể khai thác vô số ý nghĩa triết lý từ tứ thơ độc đáo này. Nhưng theo tôi, cái đáng quan tâm ở đây không phải là những triết lý quen thuộc về sự sống - cái chết (là điều có thể “đọc” ra ngay từ cái tên bài thơ) mà là sự xâm nhập, chuyển hóa giữa các yếu tố đối lập ấy, và hơn thế, là cách mô tả của nhà thơ về quá trình ấy. Chọn điểm nhìn quan sát từ bên trong, “tường thuật” lại các sự kiện, cảm giác cá nhân một cách rành rẽ, chi tiết, nhà thơ cho thấy quá trình chuyển hóa của sự sống và cái chết là một tất yếu, nó đến tự bên trong, tự nhiên và lặng lẽ đến đỗi khó có thể nhận ra. Qua điểm nhìn và cách kể ấy, cảm giác những bông hoa chui ra từ cuống họng, mắt, ngón tay, tai, lồng ngực... của kẻ đã chết, đã nằm dưới mộ, đồng thời cũng là nhân vật trữ tình đang xưng “tôi”, đang kể cho chúng ta nghe về những diễn biến cảm giác của anh ta, vốn là điều hết sức phi lý (xét theo logic thông thường), đã trở thành điều hoàn toàn hợp lý, không thể khác. Cái tôi nhận ra cảm giác sống ngay trong khi đang/ đã chết (và rất có thể ngược lại). Đó là một cảm giác/ nhận thức siêu nghiệm nhưng không thể sống động và thuyết phục hơn.

Chủ đề cái chết trong bài thơ của Pháp Hoan làm tôi nhớ một kỷ niệm với bài thơ Nhẹ của Nguyễn Bình Phương. Khi dạy sinh viên, tôi thường che tên của bài thơ và yêu cầu họ đọc bài thơ, sau đó đoán thử xem tên nó có thể là gì. Phần lớn các sinh viên của tôi đều nghĩ tới một cái tên: Chết (hoặc Cái chết). Điều này có lý do, đấy là do áp lực của cấu trúc lặp lại (từ “chết”) và sự xuất hiện của các yếu tố ám chỉ cái chết: ngôi sao đen, khu rừng ma, những con hươu ma, vĩnh biệt, ra đi... Tuy vậy, sau đó tôi đã lưu ý họ về cái tiêu đề của bài thơ như một sự chỉ dẫn, nhắc nhở ngầm của tác giả. Điều này giúp họ kết nối với nội dung ý nghĩa đã được phát hiện trên bề mặt văn bản: bài thơ là một triết lý về cái chết theo kiểu Nguyễn Bình Phương. Phải, chết rất Nhẹ.

Chết làm sao ngôi sao đen

Nằm trên giường bình nhiên bí ẩn

Chết không thở cùng hoa

Thở cùng người đàn bà xa lạ

Ở trong khu rừng ma

Có những con hươu ma

Chết nở một nụ cười sáng nhẹ

Chẳng vĩnh biệt em chẳng tiễn biệt ai

Từ tốn mơ màng

Bông cải cúc ra đi

Như vậy, khi phân tích một bài thơ, ta cần phải chú ý đến phương diện kết cấu của nó. Đấy là cách tổ chức toàn bộ các yếu tố, cấp độ, đơn vị của bài thơ thành một chỉnh thể thống nhất. Trong thơ hiện đại, tồn tại phổ biến kiểu kết cấu mở (một thuật ngữ quy ước, nhằm phân biệt với kiểu kết cấu đóng, có tính tĩnh tại, khép kín trong thơ truyền thống). Kết cấu mở gắn liền với quan điểm hiện đại về vai trò của ngôn ngữ và vô thức trong hoạt động sáng tạo. Với kiểu kết cấu này, tính liên tục của dòng cảm xúc và mạch liên tưởng bị phá vỡ, biểu hiện của cái tôi tác giả bị hạn chế, lời thơ nhiều khi trở nên tăm tối, khó hiểu. Tác giả có thể đồng thời hòa vào bài thơ nhiều mạch cảm xúc, liên tưởng khác nhau, tạo ra sự chồng lấn, trùng phức trong điểm nhìn, giọng điệu. Điều này rõ ràng gây khó cho tiếp nhận của độc giả. Nhưng mặt khác, nó trao quyền chủ động tối đa cho người đọc, cho phép họ tích cực tham gia vào hoạt động tạo nghĩa văn bản.

Bài thơ sau của Mai Văn Phấn là một ví dụ.

Ghi ở Vạn Lý Trường Thành

Mây xếp lên vai từng tảng đá nặng

nhòe mắt cát

thở đầy ngực cát

Vạn Lý Trường Thành còn xây dở?

Trên không tiếng hoạn quan truyền chỉ

Bắt được kẻ nào vừa vác đá vừa làm thơ

đánh hộc máu mồm

Khâm thử!

Ngước lên gặp một khuôn mặt bì bì

tay lạnh, mắt chì, giọng mỡ

Mái Phong hỏa đài màu huyết dụ

hình thanh long đao dính máu đang kề cổ

Còng lưng đẩy nắng đi

Chồn chân đẩy gió đi

Miễn sao được gần bông hoa

đang mởn mơ trong gió lớn

Tâu hoàng thượng/ thưa ngài/ báo cáo đồng chí...

Bỉ chức/ thảo dân/ em

sẽ làm trọn bổn phận

Đây là đỉnh trời

hay đáy vực sâu

chỉ thấy trên lưng lằn roi bỏng rát

Mồ hôi du khách trên đá xám

nở thành hoa phù dung.

Cắt dọc bài thơ theo tuyến sự kiện, ta thấy có một hành trình hiện tại của du khách, hiển thị trên bề mặt văn bản: mây xếp trên vai/ nhòe mắt cát/ thở/ ngước lên/ mái Phong hỏa đài/ còng lưng/ chồn chân/ mồ hôi du khách trên đá xám. Song song với hành trình của du khách (trong hiện tại) là hành trình của những dân công khốn khổ vác đá xây Vạn Lý Trường Thành (trong quá khứ). Lớp nghĩa thứ hai xuất hiện ngay cạnh lớp nghĩa thứ nhất: từng tảng đá nặng/ nhòe mắt cát/ thở đầy ngực cát/ Vạn Lý Trường Thành còn xây dở/ Tiếng hoạn quan truyền chỉ/ đánh hộc máu mồm/ Khâm thử. Ta còn có thể đọc ra lớp nghĩa thứ ba, khi xuất hiện đồng thời trên hành trình ấy chân dung một con người khá đặc biệt: “vừa vác đá vừa làm thơ”, “còng lưng đẩy nắng”, “còng lưng đẩy gió”, “miễn sao gần được bông hoa/ đang mởn mơ trong gió lớn”. Ấy là chân dung của nghệ sĩ, kẻ yêu cái đẹp, vì cái đẹp mà có thể bất chấp tất cả. Chân dung ấy gợi nhớ tới bao nhiều gương mặt thi nhân vĩ đại trong nền văn hóa Trung Hoa lâu đời. Đó là một liên hệ bất ngờ nhưng có lí. Nhờ vào cấu trúc song hành, nhiều chiều kích không gian/ thời gian, quá khứ/ hiện tại… đan lồng vào nhau, kích hoạt những suy ngẫm đa chiều về con người và lịch sử. Song cũng đúng lúc ấy, cắt ngang mọi ảo tưởng, là sự đồng thanh, trùng điệp, nhẫn nhục của những giọng nói:

Tâu hoàng thượng/ thưa ngài/ báo cáo đồng chí...

Bỉ chức/ thảo dân/ em

sẽ làm trọn bổn phận

Trong khoảnh khắc, dường như cửa ngõ tất cả các chiều kích không - thời gian đã chập lại và mở thông sang nhau. Cùng lúc, ta thức tỉnh về sự lặp lại bi đát, thê thảm của thân phận con người, đặc biệt là thân phận kẻ sĩ/ trí thức trong suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa, trong chế độ toàn trị, với sức mạnh tàn bạo hiện hình ở chính biểu tượng Vạn Lý Trường Thành.

Một số tác giả đặc biệt quan tâm tới kĩ thuật trình bày văn bản theo lối ngôn ngữ - biểu hình. Thơ và họa kết hợp chặt chẽ trong những sáng tác này. Chẳng hạn, Jờ Joạcx của Trần Dần, Đàn của Dương Tường, Chữ cái của Từ Huy, Mặc xanh áo em của Trần Nguyễn Anh, Những câu phức của Như Huy, Lô Lô của Ly Hoàng Ly... Một số nhà thơ cố ý tạo nên những cấu trúc ngôn ngữ khác thường, nhằm tạo nên nhạc tính kiểu mới (ví dụ Noel của Dương Tường...); hoặc để gợi ra những cảm giác mơ hồ mộng mị (như Thơ vụt hiện của Hoàng Hưng...). Sự khác biệt trong hệ thống hình ảnh, biểu tượng cũng là điểm cần lưu ý. Chúng có thể cho thấy những chuyển động, tìm tòi mới trong tư duy, quan niệm của tác giả. Chẳng hạn, hình ảnh đồ đạc trong thơ Phan Thị Vàng Anh; các con vật chó, rắn, ốc sên, gián... trong thơ Nguyễn Quang Thiều, ruồi, rác thải, đồ tái chế... trong thơ Vũ Thành Sơn, Phan Nhiên Hạo; cái bồn cầu trong thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh v.v. thực ra không phải được tả thực. Chúng là phương tiện để nhà thơ thể hiện cái nhìn mới, mang tính dân chủ về đời sống và thơ ca.

Khi tiếp cận bài thơ, ta có thể tùy vào đặc điểm đối tượng cũng như mục đích, nguyên tắc và sự nhạy cảm riêng của người đọc để chọn điểm/ góc tiếp cận. Không nhất thiết phải trình bày tất cả (điều này vừa không cần thiết vừa không thể) về các phương diện hình thức và ý nghĩa của bài thơ. Trên thực tế, cho dù bài thơ có được đánh giá là “tuyệt tác” đi nữa, giá trị nghệ thuật của nó không bao giờ chia đều cho tất cả các yếu tố.

Bên cạnh việc tập trung vào một số điểm sáng nổi bật trong tác phẩm, ta vẫn phải luôn chú ý tới nó như một chỉnh thể. Trước hết, đó là chỉnh thể - bài, nhưng có khi rộng hơn, là chỉnh thể - tập; hoặc hơn thế nữa, chỉnh thể phong cách tác giả hoặc loại hình thơ mà nó thuộc về. Chẳng hạn, khi đọc bài thơ Ghi ở Vạn Lý Trường Thành của Mai Văn Phấn, tôi sẽ phải xem xét nó kỹ hơn trong tương quan với những tìm tòi theo hướng hậu hiện đại trong tập Hôm sau. Cũng tương tự, để hiểu sâu hơn về Bóng chữ, tôi sẽ phải đặt bài thơ này vào “trường thơ” Lê Đạt, người tự nhận mình là “phu chữ” với quan niệm “chữ bầu lên nhà thơ” [2]. Điều đó giúp tôi hiểu Bóng chữ thực chất là một tuyên ngôn về thơ, về sự sáng tạo.

Đọc thơ, cũng như tiếp nhận nghệ thuật nói chung, trên thực tế, chưa bao giờ là việc dễ dàng. Nhất là khi ta đứng trước những văn bản viết theo lối khác với truyền thống, bị xem là tối tăm, hũ nút hoặc tầm phào, vô nghĩa, thường bị gộp chung vào trào lưu “chủ nghĩa hiện đại”, và gần đây là “hậu hiện đại”. Sự thực thì thơ hậu hiện đại, cũng như thơ hiện đại và các loại hình thơ trước đó, đều có nguyên tắc, thủ pháp sáng tạo riêng, ưu điểm và nhược điểm riêng. Dẫu sử dụng những kỹ thuật viết giống nhau, có tác giả viết được những tác phẩm giá trị, có tác giả chỉ dừng lại ở những thử nghiệm thất bại. Khi đọc Chuyện 40 năm mới kể và 18 bài thơ tân hình thức của Inrasara, tôi phải tìm đọc lí thuyết hậu hiện đại để hiểu thêm về tư tưởng phá hủy đại tự sự, góc nhìn ngoại biên và đặc thù của lối viết hậu hiện đại. Những tri thức này gợi ý hướng tiếp cận và giúp tôi nhận ra cái hay trong những sáng tác như Yêu nhau ba thì. Bài thơ, thực chất, là sự giễu nhại những đại tự sự như tình yêu, thơ ca, nghệ thuật... Trong nhãn quan hậu hiện đại, tác giả ý thức hơn bao giờ hết về sự sao chép, lặp lại, điều không chỉ có trong tình yêu, đời sống hiện thực, mà cả trong sáng tạo, lĩnh vực luôn đứng trước đòi hỏi phải làm mới. Ý thức ấy buộc anh ta phải viết theo cách khác, thực tế, tỉnh táo và hài hước:

Như là bản sao

chán quá đi mất, em nói

hay mình lao bừa vào nhau đi anh

Hay ta chia tay đi em

lại là thứ chia li không miếng nào đặc sắc

na ná trong phim, xa hơn: truyện cổ tích

& thì

đành yêu tạm thôi, mình nhỉ!

Tri thức thể loại và loại hình cũng giúp tôi tiếp cận và nhận ra điểm khác biệt trong lối viết của một số tác giả như Lê Vĩnh Tài, Phan Nhiên Hạo, Khế Iêm, Đặng Thân, Như Huy, Nguyễn Thế Hoàng Linh… Không chỉ khác về mặt kĩ thuật, họ còn khá khác biệt trong tư duy và cảm thức viết. Khác chưa hẳn đã hay, song trong sáng tạo, khác là một giá trị đáng chú ý. Tóm lại, ta chỉ có thể đánh giá chính xác về đóng góp, giá trị của các hiện tượng thơ (rộng ra là các hiện tượng nghệ thuật) khi xem xét, lí giải chúng trong hệ hình mĩ học của chúng.

Như vậy, với tư cách độc giả, tôi cũng cần trang bị thêm tri thức về thể loại và loại hình thơ. Đấy là một điểm tựa phương pháp luận cần thiết. (Tất nhiên, lý thuyết loại hình chỉ là một trong vô số lý thuyết mà ta có thể vận dụng khi tiếp cận tác phẩm). Và đấy cũng là nói theo cách đơn giản nhất. Vì thơ hậu hiện đại là một hiện tượng phức tạp và quan niệm về nó ở cả những người lập thuyết và sáng tác cũng hoàn toàn không thống nhất. Hơn nữa, từ quan niệm của người sáng tác đến tác phẩm của họ nhiều khi là một khoảng cách rất xa. Nếu chỉ dựa trên cái khung lý thuyết để áp vào tác phẩm, nhăm nhăm tìm kiếm các dấu hiệu phù hợp trong văn bản để minh họa cho lý thuyết, chắc chắn sẽ dẫn đến áp đặt, gán ghép thô bạo. Cách đọc này chỉ hiệu quả khi lý thuyết được vận dụng hợp lý, thể hiện qua những nguyên tắc và thao tác tiếp cận, lý giải nhuần nhị, phù hợp đối tượng văn bản. Nghĩa là lý thuyết phải trở thành tri thức công cụ. Mặt khác, đọc theo các lí thuyết hoàn toàn không có nghĩa bỏ qua việc khảo sát, phân tích văn bản cụ thể.

Trên đây là một vài đúc kết về cách đọc thơ của tôi. Chúng nghiêng về kinh nghiệm cá nhân và đôi khi sa vào lược quy phương pháp đơn giản. Nhưng điều này là cần thiết đối với tôi, nó giúp tôi ý thức rõ hơn về việc đọc của chính mình. Đây cũng chỉ là một trong vô số những cách đọc (hết sức khác nhau) và sự đa dạng này là điều quá hiển nhiên trong tiếp nhận nghệ thuật. Theo một quan niệm mĩ học hiện đại đã trở nên quen thuộc, sự phong phú, đa dạng của cách đọc tạo nên sự phong phú về nghĩa/ ý nghĩa của văn bản, đưa văn bản trở thành tác phẩm. Sự khác biệt, đa dạng của cách đọc của độc giả, đặt trong mối quan hệ với sự viết/ cách viết của nhà văn, chắc chắn cũng tạo nên sự tương tác, thúc đẩy tích cực, buộc người viết phải ý thức hơn trên hành trình tìm kiếm những giá trị sáng tạo mới. Và tôi nghĩ, đó chính là điểm cốt lõi tạo nên ý nghĩa, giá trị của tư duy đọc hiện đại.

Đọc thơ là một vấn đề khó nhưng thú vị. Đọc cách đọc thơ cũng thú vị không kém: nó cho ta thấy nhiều kiểu tư duy khác lạ, độc đáo. Tôi học được rất nhiều từ những cách đọc khác đó. Tóm lại, đọc là một quá trình tìm tòi, học hỏi, đối thoại và tìm cách đối thoại với văn bản, với người viết, với những quan niệm khác mình. Đọc cũng dạy tôi đến gần hơn với sự dân chủ và biết tôn trọng những giá trị Khác.

Vinh, 2/1/2019

________________________________________

[1] Lê Đạt (2009), Đường Chữ, Nxb Hội Nhà văn, tr, 506.

[2] Lê Đạt (2008), Đối thoại với đời và thơ, Nxb Trẻ, trang 116.